Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2016

[Người truyền lửa] PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam: Bàn về quyền văn hóa


  • Bùi Hoài Sơn. Bàn về khái niệm quyền văn hóa
Từ lâu nay, chúng ta đã khá quen thuộc với thuật ngữ quyền con người, tuy nhiên, có một thuật ngữ nữa rất đáng lưu tâm, đặc biệt đối với những người nghiên cứu, quản lý trong lĩnh vực văn hoá, đó là khái niệm Quyền Văn hoá.



Trước hết, phải khẳng định rằng, khái niệm quyền văn hoá là một bộ phận của quyền con người, nhưng do khái niệm quyền con người rộng, nhiều lĩnh vực, nên việc định hình một khái niệm về quyền văn hoá có ý nghĩa thao tác hơn và có ích nhiều hơn đối với những người làm việc trong môi trường văn hoá - nghệ thuật. Như vậy, thực sự, quyền văn hoá bao hàm những gì? Việc hiểu biết về quyền văn hoá giúp gì cho những người hoạt động trong lĩnh vực văn hoá - nghệ thuật?
Thứ nhất, quyền văn hoá bao gồm quyền được hưởng thụ văn hoá hay nói một cách ngắn gọn, người dân và cộng đồng có quyền đỏi hỏi được hưởng thụ các sinh hoạt văn hoá. Văn hoá là sáng tạo và thành tựu của con người trong quá trình lịch sử và chung sống. Những sáng tạo và thành tựu ấy của con người cần được truyền bá cho mọi người. Đó là lý do tại sao, người ta phải chiếu đi chiếu lại những bộ phim nổi tiếng, phải dịch những cuốn sách hay ra nhiều thứ ngôn ngữ, phải đưa các đoàn văn hoá - nghệ thuật đi lưu diễn ở nhiều nơi v.v. Mỗi cộng đồng, mỗi cá nhân đều có quyền được hướng thụ văn hoá, và Nhà nước, với tư cách là một chính thể, cần đáp ứng những nhu cầu ấy của cộng đồng và người dân. Chính vì quyền văn hoá này, các hàng hoá văn hoá cần có những lôgíc đi riêng, không tuân theo hoàn toàn với các lôgíc hàng hoá thông thường khác.
Lấy ví dụ, Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam hay các nhà hát sân khấu truyền thống - kịch hát dân tộc sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tự vận động trong cơ chế thị trường, nhưng nếu chúng ta xác định rằng, Nhà nước phải đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân – vì đó là quyền của họ - thì chủ trương bảo hộ, trợ giúp các loại hình nghệ thuật này có lý do lôgíc để tồn tại. Tất cả các loại hình văn hoá nghệ thuật có khán giả của nó, dù ít dù nhiều, nhất thiết phải được tạo điều kiện tồn tại để đáp ứng quyền được hưởng thụ văn hoá của người dân này.
Tất nhiên, có một nghịch lý ở đây là: có những nghệ thuật có rất ít khán giả thì liệu nó có xứng đáng  nhận sự hỗ trợ của Nhà nước để tồn tại hay không? Câu hỏi này thường được đặt ra đối với các loại hình nghệ thuật truyền thống (khi không gian diễn xướng và các chức năng xã hội của nó không còn hoặc không như xưa nữa) hoặc các loại hình nghệ thuật tiên phong, mới. Câu trả lời dường như rất phức tạp, nhưng chúng ta có thể có một gợi ý ở đây là điều này phụ thuộc vào ý chí và đánh giá từ phía các nhà lãnh đạo đối với các loại hình nghệ thuật này, và đánh giá đó không chỉ đơn thuần từ góc độ văn hoá mà nó là sự kết hợp từ những đánh giá từ nhiều lợi ích khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội v.v.
Như vậy, nói tóm lại, với quyền được hưởng thụ văn hoá, Nhà nước phải trở thành nhà bảo trợ quan trọng đối với văn hoá - nghệ thuật để đảm bảo quyền văn hoá cho người dân của mình. Nhà nước cần tạo ra những sinh hoạt văn hoá cho người dân; phổ biến những tinh hoa văn hoá của đất nước và thế giới cho người dân. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, căn bản của Nhà nước và các cơ quan văn hoá - nghệ thuật, mà ở Việt Nam, đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành văn hoá.
Thứ hai, quyền văn hoá là quyền được thể hiện và thực hành văn hoá hay nói cách khác các cá nhân và cộng đồng có quyền được bày tỏ, thể hiện những sáng tạo mang tính riêng, cá nhân của mình. Đây là một quyền đang được rất nhiều quốc gia, tổ chức và các nhà nghiên cứu quan tâm đến, đặc biệt trong bối cảnh thế giới đề cao tính đa dạng của văn hoá lẫn sự lên ngôi của học thuyết hậu hiện đại.
Trong một xã hội đa dạng, tiếng nói hay sự thể hiện của mỗi cá nhân và các cộng đồng, dù quan trọng hay ít quan trọng, dù lớn hay nhỏ, cần được lắng nghe và tôn trọng. Đây là một bài học mà thế giới đã phải trả giá rất nhiều cho việc áp đặt những tư tưởng, ý kiến của nhóm đa số, tầng lớp thống trị xã hội cho những nhóm nhỏ hơn. Canada và Australia là hai trong số nhiều nước, trong thực hành chính sách văn hoá, luôn luôn chú trọng đến tính đa dạng trong văn hoá, và cố gắng phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của công dân nước mình. Một trong những tiêu chí quan trọng nhất mà các Hội đồng nghệ thuật của hai nước này đánh giá cao khi xét duyệt các dự án là khả năng kích thích tính sáng tạo của cá nhân các nghệ sỹ và cộng đồng.
Quyền được thể hiện và thực hành văn hoá giúp kích thích tính sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng. Ở trường hợp Việt Nam, các lễ hội truyền thống ở các làng quê thể hiện rất rõ tính sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng. Các cá nhân và bản thân cộng đồng tự sáng tạo ra các hoạt động văn hoá cho chính mình (và bản thân họ cũng là người hưởng thụ văn hoá ấy). Trong trường hợp như vậy, họ có quyền được thể hiện văn hoá của mình, và Nhà nước cần tạo điều kiện cho họ thể hiện tính sáng tạo đó.
Tóm lại, Nhà nước cần phải tạo điều kiện tối đa cho các cá nhân, cộng đồng, tổ chức được thể hiện văn hoá hay tính sáng tạo của mình. Kích thích tính sáng tạo của mỗi cá nhân, cộng đồng và cả xã hội cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành văn hoá.
Thứ ba, quyền văn hoá là quyền được tôn trọng và thừa nhận các phong tục, tập quán, lịch sử, hay những sự khác biệt về văn hoá.
Do văn hoá được hình thành qua lịch sử và sự thích nghi của con người nên nhiều người cho rằng không có văn hoá cao và văn hoá thấp. Sự tôn trọng đối với văn hoá của mỗi tộc người, nhóm người nói chung và mỗi cá nhân nói riêng cũng là một phần của quyền văn hoá. Mỗi cá nhân có quyền theo hoặc không theo tôn giáo nào, có quyền theo hoặc không theo một phong tục nào, có quyền được thừa nhận về sở thích văn hoá của mình một cách không bị phân biệt đối xử.
Trên thực tế cho thấy, không phải lúc nào và ở đâu, điều kiện trên cũng được tôn trọng và thừa nhận. Nhiều người vì thích nghe loại nhạc này, xem loại chương trình truyền hình này… bị xem là kém văn hoá hay bị phân hạng xã hội theo dạng này hay dạng khác. Cũng như vậy, đâu đó, vẫn tồn tại cách nhìn nhận đối với văn hoá của một số các tộc người thiểu số là dã man, thiếu văn minh… Điều đó nhất thiết cần phải xem xét lại.
Khi chúng ta tôn trọng sự khác biệt về văn hoá, chúng ta đã tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng về văn hoá. Để tôn trọng quyền văn hoá này, Nhà nước cần có những chính sách để bảo tồn và phát huy giá trị của các nền văn hoá khác nhau, hay những chính sách chống phân biệt đối xử trong các sinh hoạt văn hoá và xã hội. Đây cũng là những nhiệm vụ trọng tâm của ngành văn hoá.
Như vậy, hiểu khái niệm về quyền văn hoá sẽ giúp chúng ta có những chính sách văn hoá thích hợp trong bối cảnh hiện nay. Chúng ta sẽ hiểu thêm về những gì người dân cần ở các nhà làm công tác quản lý văn hoá, và từ đó, có những chính sách phù hợp với những yêu cầu văn hoá đó của người dân.

[Người truyền lửa] Lễ Vinh danh Phó Giáo sư Trường Đại học Văn hóa TPHCM

Sáng ngày 09/02/2015 Trường Đại học Văn hóa TPHCM đã tổ chức buổi lễ Vinh danh và chúc mừng các thầy cô giáo của Nhà trường đã được phong hàm Phó Giáo sư năm 2015 vừa diễn ra tại Hà Nội.

Hòa chung niềm vui cả nước chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Ất Mùi năm 2015, Trường Đại học Văn hóa TPHCM còn vinh dự được đón chào hai Tân Phó Giáo sư đã được Hội đồng Chức danh Nhà nước phong tặng chức danh vào ngày 04/02/2015 tại Văn miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội, bao gồm:
1. Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Đỗ Ngọc Anh - Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa TPHCM
2. Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Xuân Hồng - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa TPHCM
Trong nhiều năm qua, nhờ những nỗ lực phấn đấu trong công tác, nghiên cứu khoa học và học tập, bên cạnh những cống hiến cao cả cho sự nghiệp đào tạo của Nhà trường, những thành quả của cả quá trình phấn đấu của các thầy cô đã được xã hội công nhận. Đây là một vinh dự lớn lao của Nhà trường vì đồng thời cùng một thời điểm có đến hai thầy cô giáo được phong tặng học hàm Phó Giáo sư.
Đến tham dự buổi lễ, có đại diện Đảng ủy Khối cơ sở Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tại TPHCM và đại diện nhiều cơ quan đơn vị khác cũng đến chúc mừng như: Cục Công tác Phía Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); Trường Đại học An ninh nhân dân TPHCM; Trường Đại học Mỹ Thuật TPHCM...Về phía Nhà trường, ngoài Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường, còn có đại diện các Phòng/ Khoa/ Ban và đông đảo cán bộ giảng viên, công nhân viên cũng đến chia vui và chúc mừng.



Tại buổi lễ, Đảng ủy Ban Giám hiệu Nhà trường đã báo cáo sơ lược về quá trình công tác và cống hiến của hai thầy cô. Ngoài ra, Đảng ủy, Ban Giám hiệu và Công đoàn Nhà trường đã trao tặng hoa và quà lưu niệm. Các đơn vị và rất nhiều cán bộ giảng viên, công nhân viên Nhà trường cũng tặng hoa chúc mừng.

PGS.TS Đỗ Ngọc Anh đã bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc cho sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Công đoàn Nhà trường đã tổ chức buổi lễ trân trọng này. Bên cạnh đó là gửi lời cảm ơn đến toàn thể tập thể cán bộ, giảng viên của Nhà trường đã có nhiều hỗ trợ và cùng đồng hành với các thầy cô trong suốt thời gian công tác tại Trường. PGS.TS. Đỗ Ngọc Anh cũng đã gửi lời và trân trọng cảm ơn đến các thầy cô giáo của nhà trường đã nghỉ hưu, các thầy cô giáo thỉnh giảng và các nhà nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp đã gắn bó và hỗ trợ Nhà trường nói chung và cho cá nhân các thầy cô nói riêng trong suốt quá trình từ lúc khởi đầu sự nghiệp Nhà giáo cho đến nay.


[Người truyền lửa] GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm: “Giáo dục hỏng chính là do triết lý giáo dục sai lầm”

Cách đây 4 năm, cũng trên Báo Lao Động, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm đã thẳng thắn chỉ ra 4 trọng bệnh của nền giáo dục VN là: Bệnh thành tích, bệnh cào bằng, bệnh suy dinh dưỡng và bệnh gian dối. Trong 4 năm qua, ông đã cho rằng, 4 căn bệnh ấy chưa khái quát được thể trạng thực của nền giáo dục đang suy yếu. Trong quá trình nghiên cứu “Hệ giá trị VN từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai”, ông nhận thấy những nan đề của giáo dục VN và việc xây dựng hệ giá trị VN có quan hệ mật thiết với nhau: Muốn giải quyết được những bế tắc của giáo dục thì phải xây dựng hệ giá trị; và ngược lại, muốn xây dựng được hệ giá trị thì phải giải quyết dứt điểm những căn bệnh khó chữa của nền giáo dục, mà điểm mấu chốt là phải thay đổi triết lý giáo dục.
    Vì sao ông cho rằng, đã đến lúc chúng ta cần thay đổi triết lý giáo dục?
    - Bởi vì đất nước ta hiện nay đang lúng túng, loay hoay chưa cất cánh được. Trong khi nhiều nước Đông Nam Á vốn có xuất phát điểm thấp hơn ta mà nay đang lần lượt vượt ta. Chúng ta tuyên bố văn hóa là quan trọng nhưng ở đâu cũng chỉ thấy lo phát triển kinh tế. Thực ra, nguyên nhân tụt hậu không phải do thiếu vốn mà là do con người. Con người VN đang sa lầy trong mớ bòng bong của 30 tật xấu nghiêm trọng mà đề tài nghiên cứu hệ giá trị của chúng tôi đã xác định như: Bệnh giả dối, thói dựa dẫm, thói cào bằng, bệnh hẹp hòi, bệnh sĩ diện, bệnh thành tích, bệnh phong trào, bệnh hình thức, bệnh nói xấu sau lưng, bệnh triệt tiêu cá nhân, bệnh thụ động, bệnh đối phó, bệnh thiếu bản lĩnh, bệnh hám lợi, bệnh đại khái, bệnh dĩ hòa vi quý, bệnh nước đôi, bệnh sống bằng quan hệ, thói tùy tiện, bệnh thiếu ý thức pháp luật, thói khôn vặt, tật ăn cắp vặt... Bốn trọng bệnh của nền giáo dục VN mà tôi đã từng nói đến cũng không nằm ngoài 30 tật xấu này. Nếu không loại trừ các tật xấu này thì làm gì cũng hỏng.
    Muốn loại trừ các tật xấu này, thay đổi con người thì giáo dục là một trong năm giải pháp quan trọng để xây dựng hệ giá trị VN mới. Nhưng nghịch lý là ở chỗ con người là sản phẩm của giáo dục; chính giáo dục đã góp phần quan trọng tạo nên con người hiện nay với 30 tật xấu này; các bệnh gian dối, bệnh thành tích, bệnh phong trào, bệnh đối phó..., trẻ em đã học được từ môi trường giáo dục (nhà trường, gia đình, xã hội) chứ ở đâu? Giáo dục hỏng như vậy chính là do triết lý giáo dục sai lầm. Cho nên, cải cách giáo dục cần phải bắt đầu từ việc thay đổi triết lý giáo dục.

    Vậy triết lý giáo dục của VN cho đến nay là gì, thưa ông?
    - Các quan chức thường tuyên bố những triết lý giáo dục muốn có rất hay ho, nhưng lại không xuất phát từ thực tiễn để xác định xem triết lý giáo dục của VN cho đến nay là gì. Sửa mà không biết nó thế nào nên càng sửa càng sai. Tìm triết lý giáo dục ấy ở đâu? Nó không nằm trong những điều tốt đẹp được chúng ta tuyên bố, mà nằm trong thực tiễn hoạt động giáo dục hàng ngày. Thực tiễn hoạt động giáo dục hàng ngày này là do nhu cầu của xã hội quy định.
    Xã hội VN truyền thống là xã hội nông nghiệp trồng lúa nước rất âm tính, với đặc trưng cơ bản là chỉ muốn sống yên ổn, ổn định. Muốn ổn định thì xã hội cần những con người ngoan ngoãn, biết vâng lời. Bởi vậy mà triết lý giáo dục truyền thống của VN có thể tóm gọn trong bốn chữ cửa miệng mà mọi người VN, các trường học VN thường dùng, là “con ngoan, trò giỏi”. Con ngoan là biết vâng lời (Con cãi cha mẹ trăm đường con hư), trò giỏi là học thuộc bài (câu hỏi cửa miệng thường là “Đã học thuộc bài chưa?”). Nói đầy đủ hơn, đó là một triết lý giáo dục hướng đến ổn định.
    Theo ông, có phải cái “triết lý” con ngoan trò giỏi, triết lý hướng đến ổn định nêu trên đã tạo ra không ít bi kịch cho đất nước?
    - Nói một cách công bằng thì triết lý giáo dục này từng phục vụ rất đắc lực cho việc tạo nên sự ổn định và giữ nước trong xã hội VN truyền thống. Con ngoan trò giỏi thì xã hội đồng nhất, có đồng nhất thì mới góp phần tạo nên tính cộng đồng cao, mới hướng nội, mới phát huy được tinh thần dân tộc, bảo vệ được đất nước, giữ được ổn định và bản sắc để không bị đồng hóa.
    Nhưng nay thì khác. Nay là thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập; xã hội không còn hướng nội mà cần hướng ngoại; sự ổn định thời xưa đạt được nhờ đứng yên, nhìn về quá khứ, còn ngày nay một xã hội ổn định phải là xã hội phát triển, nhìn về tương lai. Chính vì không còn thích hợp nên triết lý giáo dục “con ngoan trò giỏi”, triết lý hướng đến ổn định đã tạo nên những bi kịch và gây nên những trở ngại.
    Trước hết, nó tạo nên một xã hội hiếu danh. Chúng ta thường tự hào rằng, người VN hiếu học, nhưng thực ra là người VN không hiếu học, mà hiếu danh. Hiếu học là ham kiến thức, ham vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Trong khi người VN thời xưa đi học chỉ cần thi đỗ làm quan (trong một xã hội lấy ổn định làm đầu thì như thế là đủ); nhưng ngày nay mà đi học vẫn chỉ cần thi đỗ lấy bằng (nhiều người trong quá trình thì học cho có, trốn học nhờ điểm danh, lúc thi thì học thuộc lòng, học tủ, thuê người thi hộ…), học xong rồi quên hết, làm việc kém hiệu quả, “hiếu học” theo kiểu như vậy thì làm sao đất nước phát triển được?
    Triết lý giáo dục hướng đến ổn định gắn liền với một xã hội mà mọi thứ đều được bao cấp; thời bao cấp qua đã lâu nhưng do có gốc từ văn hóa nên hiện tượng bao cấp vẫn còn nguyên: Trong nhà thì cha mẹ bao cấp cho con cái; ở trường thì nhà trường, thầy cô bao cấp cho học sinh; ở phạm vi quốc gia thì bộ bao cấp cho các trường, nhà nước bao cấp cho nhân dân. Xã hội bao cấp dẫn đến cơ chế “xin - cho”. Như thế thì làm sao mà đất nước phát triển được?
    Triết lý giáo dục hướng đến ổn định bằng lòng với tầm nhìn tiểu nông, chỉ thấy mục tiêu rất gần. Các bậc cha mẹ VN có tâm lý chung là cho con đi học, thấy con ngồi trước “đèn sách” là yên tâm; điểm cao, xếp thứ hạng cao là hài lòng. Quan chức VN suy nghĩ và làm việc theo tư duy nhiệm kỳ, chưa hết nhiệm kỳ đã chạy chọt để kiếm cái ghế ngon lành hơn, hoặc nếu sắp nghỉ hưu thì buông trôi, tìm cách hạ cánh an toàn, còn công việc thì “để cho nhiệm kỳ sau họ làm”. Như thế thì làm sao mà đất nước phát triển được?
    Ông có thể phân tích thêm về các hệ lụy của “triết lý” này?
    - Triết lý giáo dục này đẻ ra rất nhiều hệ lụy. Mục tiêu “con ngoan trò giỏi” và tầm nhìn tiểu nông khiến cho người VN làm gì cũng chỉ lo đối phó, khiến cho các trường chuyên lớp chọn của chúng ta chưa bao giờ thực sự là những nơi đào tạo nhân tài, mà chỉ là những lò luyện gà chọi, không hơn không kém. Tôi từng hỏi một trong những địa phương có trường chuyên nổi tiếng: Liệu có bao giờ các vị thử thống kê xem trong số những học sinh từng giật giải quốc tế, đem lại niềm tự hào cho trường mình có bao nhiêu người đã trở thành nhà khoa học lớn? Câu trả lời gần như là con số không. Với lối đào tạo đối phó, quy mọi đề thi về những dạng bài tập mẫu để dạy cách giải thì đúng là học sinh VN không khó để qua mặt các nước bạn. Song cuộc đời đâu phải là những đề thi, và mọi giải pháp đâu phải đều có sẵn trong những bài tập mẫu? Cuộc sống đòi hỏi phải sáng tạo, và vì vậy các nước rất chú trọng đào tạo nhân tài. Nếu Ngô Bảo Châu chỉ là sản phẩm của trường chuyên VN mà không có những năm học tập và nghiên cứu ở Đại học Paris VII, Đại học Paris XI và Trung tâm NCKH QG Pháp (CNRS) thì chắc hẳn đã không thể trở thành một nhà khoa học nổi danh như hiện nay.
    Triết lý giáo dục “con ngoan trò giỏi” dẫn đến một quan niệm rất lạ lùng về việc giới hạn dung lượng sách giáo khoa (SGK). SGK PT cứ phải giới hạn trong khoảng 70 - 80 trang, SGK ĐH trong khoảng 200 - 300 trang. Mang tiếng là hiếu học mà cứ tính toán từng đồng bạc, từng trang giấy - cái lợi thì nhỏ mà cái hại thì lớn. Hại ở chỗ sách đã cô đúc ngắn gọn rồi thì chỉ còn cách học thuộc lòng. Nếu sách có sai sót nữa thì HSSV VN sẽ học thuộc lòng cả cái đúng lẫn cái sai.
    Chính là do ảnh hưởng của triết lý giáo dục “con ngoan trò giỏi” mà chúng ta đã khôi phục khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở khắp nơi, cứ tưởng rằng xã hội lộn xộn thì chỉ cần gò trẻ em vào lễ là xong. Nề nếp do lễ mang lại ở đâu chưa thấy, trong khi ai cũng biết rằng, Nho giáo và chữ lễ trói buộc con người, không cho sáng tạo thì rất rõ. Không sáng tạo, làm sao có phát triển? Triết lý giáo dục “con ngoan trò giỏi” còn khích lệ bệnh thành tích, góp phần phát triển bệnh giả dối. Ngày xưa, khi còn sống trong môi trường văn hóa làng xã, người Việt có khéo nhưng ít giả dối, vì trong quy mô hẹp, người ta nói khéo để khỏi mất lòng nhau, chứ mọi người quá rành về nhau. Ngày nay, khi quan hệ xã hội vượt ra khỏi làng xã, mọi người không thể biết hết về nhau, cộng thêm quản lý không nghiêm, sinh ra gian dối lan tràn. Đứa trẻ bước vào lớp 1 còn ngây thơ, trung thực, bước ra khỏi lớp 12 đã học được quá nhiều kinh nghiệm dối trá từ việc viết văn theo mẫu, diễn kịch khi có đoàn kiểm tra; trước mặt cha mẹ và thầy cô chúng có thể đóng vai đứa trẻ ngoan hiền, còn khi chỉ có chúng với nhau thì… có mà trời biết!
    Chúng ta cũng đã làm rất nhiều cuộc cải cách giáo dục, vì sao mà không thu được hiệu quả, theo ông?
    - Chính vì lần nào cũng chỉ tập trung vào ba yếu tố bề mặt là cấu trúc, chương trình và SGK, mà không giải quyết nguyên nhân gốc ở bề sâu là triết lý giáo dục và con người, nên việc cải cách chỉ gây thêm tốn kém và rối loạn.
    Thêm vào đó, với truyền thống văn hóa tiểu nông, tầm nhìn ngắn, làm gì cũng đối phó, không cân nhắc thấu đáo, nên lần nào cũng cải cách nửa vời. Ở nước khác cũng cải cách giáo dục nhưng làm rất ít, tính toán rất kỹ, có thử nghiệm rất chu đáo. Còn ở ta, rất tiếc là cuộc thực nghiệm giáo dục rất bài bản của GS. Hồ Ngọc Đại thì bị hủy bỏ, thay vào đó là cải cách “rất nhiều”, lần nào cũng làm ào ào như đánh giặc, làm sao mà có chất lượng và hiệu quả?
    Vậy theo ông, nên đưa ra giải pháp nào cho tình trạng này?
    - Giải pháp cốt lõi tất nhiên sẽ là phải thay đổi triết lý giáo dục từ hướng đến ổn định chuyển sang hướng đến phát triển, từ “con ngoan trò giỏi” sang con có bản lĩnh, trò dám sáng tạo.
    Xã hội muốn phát triển thì văn hóa phải thiên về dương tính. Điều đó có nghĩa là xã hội phải thực sự dân chủ và hoạt động theo pháp quyền, con người phải từ bỏ chủ nghĩa cộng đồng làng xã mà thay vào đó là bản lĩnh cá nhân và ý thức cộng đồng xã hội. Phải coi trọng sự trung thực hơn là khôn khéo; ý thức trách nhiệm thay cho thói dựa dẫm; tinh thần hợp tác vì việc chung thay cho thói sĩ diện, bệnh phe nhóm; tính khoa học và sáng tạo thay cho lối làm việc đối phó, tùy tiện.
    Những giá trị này phải trở thành mục tiêu mà cải cách giáo dục cần hướng tới. Từ triết lý giáo dục và mục tiêu ấy, mới tính đến những vấn đề như cấu trúc các cấp học, chương trình, SGK sao cho phù hợp; bên cạnh đó, phần quan trọng là phải thay đổi một cách cơ bản cách dạy, cách đánh giá; cách nghĩ, cách làm của các thầy cô và bộ máy quản lý giáo dục đến từng trường.
    Giáo dục là công việc không phải của riêng nhà trường. Nếu ngành giáo dục và nhà trường hoạt động đơn độc thì dù cố gắng đến mấy cũng không thể thành công.
    Vậy thì còn cần bổ sung thêm những giải pháp nào?
    - Phải thay đổi mô hình giáo dục. Mô hình giáo dục hiện nay gồm ba yếu tố là gia đình - nhà trường - xã hội. Đây chính là sản phẩm điển hình của triết lý giáo dục hướng đến ổn định của một xã hội bao cấp, khi mà tất cả mọi người đều làm giáo dục, còn bản thân đối tượng giáo dục thì hoàn toàn bị bỏ quên, học trò không là gì trong mô hình giáo dục cả.
    Trong cuốn sách của mình về hệ giá trị, chúng tôi đưa ra mô hình giáo dục gồm 5 thành tố, trong đó thành tố quan trọng nhất, thành tố trung tâm là bản thân đối tượng giáo dục. Đứa bé phải được tham gia dần, cuối cùng là tự quyết định, phải là người có trách nhiệm cao nhất với việc học của mình. Gia đình, nhà trường, xã hội đóng vai trò định hướng, tư vấn, phục vụ, hỗ trợ. Và cuối cùng, nhà nước tạo mọi khuôn khổ thể chế, pháp lý... phục vụ cho việc đào tạo con người.
    Với triết lý giáo dục và mô hình giáo dục như vậy, mọi thứ như cấu trúc hệ thống, chương trình, SGK, phương pháp dạy, phương pháp đánh giá, đội ngũ GV sẽ đều phải đổi khác.
    Ông nói đến đa dạng hóa tư duy, có nghĩa là phải biết chấp nhận sự khác biệt và lắng nghe phản biện?
    - Nếu mỗi người có bản lĩnh thì xã hội sẽ được đa dạng hóa. Vì có bản lĩnh nên mỗi người nghĩ một kiểu. Cùng học một môn nhưng mỗi người sẽ tiếp thu một cách khác nhau. Mỗi người là một thế giới riêng biệt không ai giống ai, chứ không phải là những rô-bốt từ trong nhà máy sản xuất ra. Đa dạng hóa xã hội, đa dạng hóa tư duy thì đó mới là xã hội thực sự của con người. Đa dạng nhưng tất cả cùng nhau hướng đến những mục đích tốt đẹp nhất cho xã hội chứ không phải là đào tạo thì theo một khuôn mẫu chung còn khi đi ra xã hội thì mạnh ai nấy làm, không hợp tác được với nhau.
    Tôi biết làm như vậy sẽ rất khó. Các nước phát triển đã có con người với các tiêu chuẩn của văn hóa - văn minh công nghiệp, đô thị và hội nhập rồi nên mục tiêu giáo dục của họ không hoàn toàn giống ta, ta không thể bê nguyên xi mô hình của họ vào áp dụng. Nhưng có khó vậy thì mới có thể có được con người Việt Nam có bản lĩnh, mới thay được nền giáo dục “con ngoan trò giỏi” sang nền giáo dục “con bản lĩnh, trò sáng tạo”. Tôi nghĩ chúng ta có quyền hy vọng khi nghe tân Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ trả lời phỏng vấn của Vnexpress ngày 10.4 cho rằng, mục tiêu của giáo dục là tạo nên những con người thực sự nhân văn, là phát triển năng lực người học và dạy làm người, là hướng tới chất lượng và sản phẩm đầu ra chứ không phải là bằng cấp.
    Xin cảm ơn giáo sư!

    [Người truyền lửa]: GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Nghị lực - thành công và cuộc đời đầy ắp những bất ngờ

    Có thể nói, trong cuộc đời mình, Trần Ngọc Thêm không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào để tận hiến cho khoa học. Cuộc đời ông giống như một cuốn phim, mà ở đó, ông đã tham gia đóng nhiều vai và ở vai nào thì ông cũng rất thành công, cũng thể hiện mình một cách xuất sắc nhất. Về điều này, ông từng chia sẻ: “Cuộc đời tôi ít có sự lựa chọn và luôn phải chuyển đổi nghề nghiệp. Chính vì không có lựa chọn nên muốn tồn tại, tôi buộc phải có nghị lực và quyết tâm cao mới có thể làm tốt được những việc mà lúc đầu mình không thích. Từ chỗ quyết tâm làm tốt dẫn đến hình thành lòng say mê, và sự say mê đã giúp mình càng làm tốt hơn”. Có lẽ cuộc đời ít được lựa chọn đó của ông đã mang đến cho ông nhiều điều bất ngờ, và đến lượt mình, những điều bất ngờ đó đã dẫn ông đến những thành công rất đáng tự hào, để đến ngày hôm nay ông đã có những đóng góp không nhỏ cho khoa học và đào tạo nước nhà, đặc biệt là trên hai lĩnh vực Ngôn ngữ học và Văn hóa học.


    Những dấu ấn bất ngờ trên bước đường học tập
    GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm chào đời năm 1952 tại xã Hiền Đa, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuần nông, từ thuở nhỏ ông cũng như bao đứa trẻ nông thôn khác, thường xuyên phải làm những công việc đồng áng. Là một đứa trẻ vốn ham chơi, nên ông thường xuyên bị cha phạt và đánh đòn vì những trò nghịch ngợm tai quái của mình. Tuy nhiên đó lại là những kỷ niệm đẹp và sâu sắc về tuổi thơ mà sau này mỗi lần nghĩ lại ông vẫn thấy chúng đã trở thành những dấu ấn ký ức không thể nào quên. Những năm học phổ thông, nhờ có tư chất thông minh, thành tích học tập của ông tuy không thật xuất sắc, nhưng vẫn để lại nhiều ấn tượng. Đặc biệt, ông có năng khiếu nghệ thuật từ rất sớm, mơ ướ về sau này sẽ thi vào đại học Mỹ thuật. Tuy nhiên, một cơ duyên bất ngờ đã bẻ ngoặt số phận  Trần Ngọc Thêm sang một con đường khác. Năm 1968, vì có thành tích tốt trong học tập, ông đã được nhà trường chọn cử đi học ở Liên Xô, thế nên ước mơ thi vào trường Mỹ thuật của ông đã dừng ở đó. Những năm tháng được học tập ở một phương trời xa xôi là đất nước Liên Xô xinh đẹp, cuộc đời đang dành cho ông một chuỗi bất ngờ mới.
    Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm/Ảnh: Thành Long
     Sang Liên Xô, ông được Bộ Đại học Việt Nam phân công học ngành Kinh tế Công nghiệp Rừng. Ông có một năm học dự bị tiếng Nga và ôn lại chương trình lớp 10 bằng tiếng Nga tại Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Minsk. Ban đầu, việc học tiếng Nga với ông thật vô vàn khó khăn. Nhưng bằng sự nỗ lực hết mình, chỉ sau học dự bị,  từ chỗ không biết một chữ tiếng Nga nào, ông đã trở thành một trong số những sinh viên đứng đầu khóa. Sau năm học dự bị với kết quả học tập đạt loại giỏi đều tất cả các môn khoa học xã hội và tự nhiên, Đại sứ quán Việt Nam tai Liên Xô đã quyết định chuyển ông sang học ngành Ngôn ngữ Toán ở Đại học Tổng hợp Quốc gia Leningrad. Đây là một ngành mới và rất khó. Ở thời điểm đó chưa có người Việt Nam nào học thành công ngành này nên ông không khỏi lo lắng, ông đã nhiều lần làm đơn xin đổi ngành học nhưng không được. Trước tình hình ấy, ông đã xác định: “Trên chưa đồng ý cho chuyển nghĩa là hãy còn tin tưởng ở mình, nếu bây giờ cứ khăng khăng đòi chuyển và lơ là học tập là có tội, phải lao vào học với tất cả quyết tâm và khả năng của mình.” Với quyết tâm đó, ông đã vươn lên trở thành người đứng đầu trong một lớp học mà phần lớn là sinh viên Nga. Suốt năm năm liền ông là sinh viên duy nhất trong lớp luôn đạt điểm tuyệt đối 5/5 và có nhiều thành tích trong nghiên cứu khoa học. Ông đã hoàn thành 2 tiểu luận, 1 tiểu luận được báo cáo ở hội nghị khoa học sinh viên toàn khoa và 1 tiểu luận được nhà trường giới thiệu thi tuyển các công trình khoa học của trường.
    Những thành tích ông đạt được khi ngồi trên ghế nhà trường thật đáng mơ ước đối với bất kỳ một người đi học nào. Từ một học sinh trung bình, ông đã trở thành một học sinh giỏi và được chọn cử đi du học. Từ một người hoàn toàn không biết ngoại ngữ, chỉ sau một năm ông đã vươn lên trở thành một trong những sinh viên đứng đầu khóa. Từ một ngành học vô cùng khó, chưa có một sinh viên Việt Nam nào thành công, ông đã quyết tâm theo đuổi nó và đã đạt được những kết quả tốt nhất mà ngay cả các bạn sinh viên Nga và các nước khác cũng ao ước.
    Những lần luân chuyển công việc gắn liền với những dấu ấn khoa học
    Thầy Trần Ngọc Thêm thời trẻ (ảnh tư liệu)
    Không chỉ để lại những dấu ấn bất ngờ trên bước đường học tập, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm còn có nhiều lần luân chuyển trong công việc, và với mỗi lần thay đổi đó, ông đều để lại những đóng góp rất có giá trị.
    Trở về nước cuối năm 1974, những tưởng với những thành tích xuất sắc đã đạt được ở ngành Ngôn ngữ Toán, ông sẽ tiếp tục phát huy và phục vụ tốt trong công việc, nhưng do vào thời điểm đó ở Việt Nam hệ thống máy tính còn hạn chế nên ngành ngôn ngữ toán không có đủ điều kiện phát huy, ông đã về làm việc tại Bộ môn Ngôn ngữ học Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và chuyển hẳn sang ngành Ngôn ngữ học - một lĩnh vực có phần khác so với Ngôn ngữ Toán mà ông đã được học trước đó.
    Trong quá trình công tác tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông đã kết hợp rất tốt giữa giảng dạy với nghiên cứu khoa học và tham gia công tác xã hội. Từ năm 1976, trong khi vừa giảng dạy và làm công tác Đoàn, ông đã bắt đầu có bài đăng trong tạp chí chuyên ngành Ngôn ngữ và từ đó đều đặn năm nào cũng có từ 1 đến 2 bài. Năm 1978, ông đã nghiên cứu đưa vào giảng dạy một chuyên ngành hoàn toàn mới mà trước đó ở Việt Nam chưa hề được biết tới là chuyên ngành Ngữ pháp văn bản. Đến năm 1980, ông đã có những kết quả công bố về chuyên ngành này khi ở tuổi 28. Thầy giáo trẻ Trần Ngọc Thêm đã được mời thỉnh giảng ở hàng loạt trường đại học từ Thái Nguyên, Hà Nội đến Quy Nhơn. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu này, ông đã hoàn thành chuyên khảo Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt dày 350 trang, được Nhà xuất bản Khoa học Xã hội in thành sách vào năm 1985, lúc ông chỉ mới 33 tuổi. Cuốn sách được khen ngợi cả về cả tính hệ thống chặt chẽ (là điều ông đạt được nhờ có tư duy toán học) lẫn văn phong sáng sủa hấp dẫn (là điều đạt được nhờ năng khiếu nghệ thuật). Những kết quả của ông trong chuyên khảo này sau đó đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống đại học và sau đại học, được đưa vào sách giáo khoa tiếng Việt cải cách ở các lớp 9-10, và vẫn được giới ngôn ngữ học Việt Nam sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
    Cũng xuất phát từ những kết quả này, ông đã mở rộng, viết thành luận án phó tiến sĩ (tương đương với tiến sĩ hiện nay) với nhan đề Tổ chức ngữ pháp - ngữ nghĩa của văn bản (trên tư liệu tiếng Việt bảo vệ tại Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Leningrad vào tháng 10 năm 1987. Khi đọc luận án này lần đầu tiên, giáo sư tiến sĩ V.V. Bogdanov, người hướng dẫn khoa học của ông, đã nhận xét: “Tôi chưa bao giờ được đọc một văn bản nào như thế này cả. Tuyệt lắm. Tôi đã đọc một mạch một cách rất cuốn hút và say mê.” Luận án đã được Hội đồng đánh giá là đặc biệt xuất sắc và nhất trí bỏ phiếu đề nghị Hội đồng Học vị tối cao toàn Liên bang (BAK CCCP) cho phép bảo vệ lại (không cần sửa chữa bổ sung) để lấy học vị tiến sĩ (tương đương với tiến sĩ khoa học hiện nay). Sau 6 tháng được BAK CCCP kiểm định và 6 tháng tiếp theo làm thủ tục, luận án Tổ chức ngữ pháp - ngữ nghĩa của văn bản (trên tư liệu tiếng Việt) đã được phép rút ra khỏi Thư viện Quốc gia để tiến hành bảo vệ lại tại Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Leningrad vào tháng 11 năm 1988 để nhận bằng tiến sĩ khoa học. Đây là một trường hợp rất ít gặp, không chỉ đối với người nước ngoài mà ngay cả với công dân Nga.
    Ngoài tác phẩm tiêu biểu Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, ông còn viết cuốn Hỏi đáp về Ngữ pháp văn bản, là người tổ chức và viết chính (5 trong 7 chương) cuốn Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm văn; tham gia viết cuốn Sổ tay tiếng Việt cấp II; dịch cuốn Ngữ pháp văn bản của O.I. Moskalskaja, dịch và tổ chức dịch cuốn Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cươngcủa V.B. Kasevich. Đầu những năm 1990, ông tham gia nhóm những người sáng lập Hội Ngôn ngữ học Việt Nam do GS. Hoàng Phê đứng đầu và được bầu làm Tổng thư ký đầu tiên của Hội.
    Cái duyên đến với Văn hóa học và tham gia xây dựng ngành Đông phương học
    Thầy Trần Ngọc Thêm có những đóng góp không nhỏ cho khoa học và đào tạo nước nhà, đặc biệt là trên hai lĩnh vực Ngôn ngữ học và Văn hóa học/Ảnh: Thành Long
    Đang rất thành công với ngôn ngữ học, những tưởng ông sẽ tiếp tục gắn bó suốt đời với ngành này, nhưng sự tình cờ lại đưa ông đến với một lĩnh vực khác, đó là văn hóa học - một ngành mà trước ông, chưa được định hình một cách rõ ràng ở Việt Nam.
    Sau khi bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Khoa học ở Liên Xô, cuối năm 1988 ông trở về nước. Vào thời điểm này, Bộ Giáo dục và Đào tạo bắt đầu tiến hành cải cách giáo dục ở bậc đại học. Nhóm ngành đầu tiên được chọn để tiến hành cải cách thí điểm là khối ngoại ngữ. Hội đồng Liên ngành Ngoại ngữ được thành lập với thành viên là các Hội đồng ngành tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Trung và Hội đồng ngữ học và Việt Nam học. Ông được giao phụ trách Hội đồng sau cùng. Dù học ngoại ngữ gì thì cũng phải có kiến thức chung về ngôn ngữ học và Việt Nam học mà quan trọng nhất là văn hóa Việt Nam làm nền tảng. Ý tưởng xây dựng môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam ra đời từ đó. Năm 1990 ông xây dựng đề cương. Sau khi được thông qua, ông bắt tay vào xây dựng nội dung. Bản giáo trình thử nghiệm đầu tiên của Cơ sở văn hóa Việt Nam do ông soạn gồm 2 tập (mỗi tập khoảng 80 trang) được Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội xuất bản lưu hành nội bộ năm 1991.
    Tháng 4 năm 1992, trong một lần đi giảng ở Tp. HCM, ông được GS. Nguyễn Ngọc Giao, Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Tp. HCM, mời vào xây dựng ngành đào tạo Đông Phương học. Vì đây là ngành mà ông đã rất quan tâm khi còn học ở Liên Xô cho nên ông vui vẻ nhận lời ngay và chuyển cả gia đình vào đó. Tại đây, ông đã thành lập và phụ trách bộ môn Châu Á học trực thuộc Trường Đại học Tổng hợp Tp. HCM năm 1992 – khởi đầu cho việc hình thành ngành Đông phương học ở Việt Nam; sau đó sáng lập và phụ trách khoa Đông phương học thuộc trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Tp. HCM từ năm 1995.
    Tháng 5 năm 1995, đề cương môn Cơ sở văn hóa Việt Nam do ông xây dựng cho khối đại học ngoại ngữ từ năm 1990 đã được thông qua làm một môn học chung cho toàn khối kiến thức đại học đại cương; đồng thời, cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam dày 500 trang của ông cũng được Trường Đại học Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh xuất bản vào tháng 10 cùng năm. Sự ra đời của cuốn sách này đã trở thành một sự kiện quan trọng và đã đón nhận hàng chục bài giới thiệu, phê bình cả trong và ngoài nước; một Hội thảo riêng bàn về cuốn sách này đã được tổ chức tại Tp. HCM. Năm 1996, trên cơ sở cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam ban đầu, ông đã phát triển thành hai cuốn là giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam dành cho sinh viên (300 trang) và chuyên khảo Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (670 trang). Cả hai cuốn sách này đều đã được tái bản nhiều lần, trong đó “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” đã được Liên minh châu Âu (EU) hỗ trợ tài chính cho Nhà xuất bản Thế giới tổ chức dịch sang tiếng Pháp và đến nay cũng đã tái bản ba lần.
    Không dừng lại ở việc dạy Cơ sở văn hóa Việt Nam như một môn học, năm 1999 ông tham gia xây dựng ngành đào tạo Cao học về Văn hóa học. Đúng lúc đề án được phê duyệt thì ông được mời đi giảng dạy tại trường Đại học Quốc tế học Hàn Quốc ở Seoul trong hai năm 2000-2001. Năm 2002, ông trở về nước và thành lập bộ môn Văn hóa học trực thuộc Trường, đồng thời được giao giữ chức Trưởng khoa Đông phương học. Sang năm 2003, ông quyết định đề nghị Trường chuyển giao chức Trưởng khoa Đông phương học cho người khác để tập trung cho việc xây dựng ngành Văn hóa học. Cùng với việc xây dựng đội ngũ, ông cũng đã chủ trì xây dựng chương trình để mở tiếp ngành đào tạo Văn hóa học ở hai cấp còn lại là cử nhân và tiến sĩ. Sau 5 năm nỗ lực, toàn bộ hệ thống đào tạo ngành văn hóa học ba cấp cử nhân - thạc sĩ - tiến sĩ lần đầu tiên đã được hoàn chỉnh tại ĐHQG-Hồ Chí Minh. Năm 2008, Bộ môn Văn hóa học trực thuộc Trường được chuyển thành Khoa Văn hóa học và ông trở thành trưởng khoa đầu tiên.
    Năm 2011, ông nghỉ quản lý khoa và chuyển sang phụ trách Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng thuộc Trường Đại học KHXH & NV - Đại học Quốc gia Tp. HCM. Tháng 4/2013, ông công bố hai cuốn sách mới: Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng (675 trang) Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ (885 trang). Cuốn trước tập hợp những thành quả nghiên cứu chính của ông trong gần 20 năm về văn hóa học lý luận và ứng dụng. Cuốn sau do ông chủ biên, là sản phẩm một đề tài NCKH cấp Trọng điểm Đại học Quốc gia do ông làm chủ nhiệm với sự tham gia của các cán bộ trong khoa. Đó là những thành quả nghiên cứu của một nhà khoa học tài năng và tận hiến. Có thể nói, trong cuộc đời mình, Trần Ngọc Thêm không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào để tận hiến cho khoa học. Cuộc đời ông giống như một cuốn phim, mà ở đó, ông đã tham gia đóng nhiều vai và ở vai nào thì ông cũng rất thành công, cũng thể hiện mình một cách xuất sắc nhất. Về điều này, ông từng chia sẻ: Cuộc đời tôi ít có sự lựa chọn và luôn phải chuyển đổi nghề nghiệp. Chính vì không có lựa chọn nên muốn tồn tại, tôi buộc phải có nghị lực và quyết tâm cao mới có thể làm tốt được những việc mà lúc đầu mình không thích. Từ chỗ quyết tâm làm tốt dẫn đến hình thành lòng say mê, và sự say mê đã giúp mình càng làm tốt hơn. Có lẽ cuộc đời ít được lựa chọn đó của ông đã mang đến cho ông nhiều điều bất ngờ, và đến lượt mình, những điều bất ngờ đó đã dẫn ông đến những thành công rất đáng tự hào, để đến ngày hôm nay ông đã có những đóng góp không nhỏ cho khoa học và đào tạo nước nhà, đặc biệt là trên hai lĩnh vực Ngôn ngữ học và Văn hóa học.
    GIÁO SƯ, TIẾN SĨ KHOA HỌC TRẦN NGỌC THÊM
    • Năm sinh: 1952.
    • Quê quán: Phú Thọ.
    • Tốt nghiệp đại học ngành Ngôn ngữ toán, tại Leningrad (Liên bang Nga) năm 1974.
    • Nhận bằng Tiến sỹ chuyên ngành Ngôn ngữ học tại Leningrad (Liên bang Nga) năm 1987.
    • Nhận bằng Tiến sỹ khoa học chuyên ngành Ngôn ngữ học tại Leningrad (Liên bang Nga) năm 1988.
    • Được công nhận chức danh Phó Giáo sư năm 1991.
    • Được công nhận chức danh Giáo sư năm 2002.
    • Quá trình công tác:
      • Giảng viên tổ Ngôn ngữ học, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1975-1992)
      • Trưởng Bộ môn Châu Á học, Trường Đại học Tổng hợp TP HCM (1992-1993)
      • Trưởng Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông phương, Trường Đại học Dân lập Ngoại ngữ - Tin học TP HCM (1995-1999)
      • Trưởng Khoa Đông phương học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM (2002-2003)
      • Trưởng Bộ môn Văn hoá học trực thuộc, sau là Khoa Văn hoá học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM (2003-2011).
      • Giám đốc Trung tâm Văn hoá học Lý luận và Ứng dụng, Trường ĐHKHXH&NV TP HCM (2011 đến nay)
      • Tổng thư ký Hội ngôn ngữ học Việt Nam nhiệm kỳ I (1990-1995)
      • Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học quốc gia Tp. HCM nhiệm kỳ 2009-2013
      • Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư ngành Ngôn ngữ học, Ủy viên Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước nhiệm kỳ 2009-2014 và 2014-2019
      • Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2011-2015
      • Ủy viên Hội đồng ngành ngữ văn Quỹ Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) nhiệm kỳ 2012-2015".
    • Các hướng nghiên cứu chính: Ngữ pháp văn bản, Văn hóa - ngôn ngữ học, Văn hóa học.
    • Các công trình khoa học tiêu biểu:
    1. Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, 1985; NXB Giáo dục in lần 2-8, 1999, 2000, 2004, 2008, 2009, 2011, 2013.
    2. Cơ sở văn hóa Việt NamĐHTH Tp.HCM in lần 1-3, 1995, 1996, 1997; NXB Giáo dục in lần 4-7, 1997, 1998, 1999.
    3. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tp.HCM in lần 1-3, 1996, 1997, 2001, 2004. Bản dịch tiếng Pháp:Recherche sur l’identité de la culture vietnamienne, Edition The Gioi, 2001, 2006, 2008.
    4. Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng, NXB Văn hóa - Văn nghệ, Tp HCM, 2013, 2014.
    5. Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, NXB Văn hóa - Văn nghệ, TP HCM, 2013, 2014.
    • Các giải thưởng khoa học tiêu biểu:
    + Bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo về công trình khoa học xuất sắc trong giai đoạn 1990-1995 cho công trình Tính hệ thống của văn hóa Việt Nam.
    + Bằng khen của Giám đốc ĐHQG TP HCM về công bố khoa học 2013 cho công trình Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng.
    + Giải Đồng Sách hay năm 2014 của Hội Xuất bản Việt Nam cho cuốn Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng.

    Đông Nam Á với Việt Nam: Một cái nhìn về văn hóa

    Để góp phần cùng bạn đọc tìm hiểu về  mối quan hệ văn hóa giữa Việt Nam và Đông nam Á, tạp chí Văn hóa Nghệ An đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu – Phó Giám đốc bảo tàng dân tộc học Việt Nam. Với 30 năm làm công tác nghiên cứu dân tộc học tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, sau đó được điều động về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam để gánh vác trách nhiệm xây dựng bảo tàng Đông Nam Á, hy vọng nội dung trao đổi của ông sẽ đáp ứng một phần nào yêu cầu của bạn đọc.



    VHNA: Thưa ông, duyên cách, hay là giới hạn địa lý của  Đông Nam Á cổ đại và Đông Nam Á hiện đại có sự dịch chuyển như thế nào?            
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Từ sau Thế chiến thứ hai, khái niệm"Đông Nam Á" mới xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới để chỉ một khu vực riêng biệt nằm ở phía đông nam của châu Á và có tầm quan trọng đặc biệtvề địa chính trị. Trước thế chiến II, phần Đông Nam Á lục địa ngày nay được gọi là Indo-China (Đông Dương), còn phần Đông Nam Á hải đảo được gọi là thế giới Mã Lai. Xa hơn về trước, người Trung Quốc gọi khu vực này là Nam Dương, người Nhật Bản gọi là Nan Yo, ngưới Ấn Độ gọi là “Suvarnabhumi” (đất vàng) hoặc “Suvanardvipa” (đảo vàng), người Ả Rập gọi là “Qumr” (nghĩa đen là mặt trăng hoặc ánh trăng, nghĩa bóng chưa rõ), là “Waq-Waq”, “Zabag” (chưa rõ nghĩa).
    Ngày nay, khái niệm Đông Nam Á vừa được sử dụng để gọi một khu vực địa lý hành chính, vừa để chỉ một khu vực văn hóa-tộc người. Bởi đây là hai lĩnh vực khác nhau nên phạm vi khu vực Đông Nam Á cũng được quan niệm không hoàn toàn giống nhau.
    - Về khu vực địa lý hành chính, Đông Nam Á ngày nay bao gồm 11 quốc gia: Brunây, Campuchia, Inđônêxia, Lào, Malayxia, Myanma,  Philíppin, Singapo, Thái Lan, Timor Leste, và Việt Nam, với dân số khoảng 600 triệu người. Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations, viết tắt là ASEAN) được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967. Lúc mới đầu có 5 thành viên là: Indonesia, Thái lan, Philippine, Singapore, Malaysia. Tiếp sau, các quốc gia khác gia nhập Hiệp hội trong các thời gian khác nhau: Bruney (1984), Việt Nam (1995), Lào và Myanmar (1997), Cambodia (1999). Tháng 11 năm 2007 các thành viên đã ký Hiến chương ASEAN, một điều luật quản lý bên trong các thành viên ASEAN và biến ASEAN thành một thực thể pháp luật quốc tế.
    Mặc dù mối liên kết giữa các thành viên còn chưa thật chặt chẻ, nhưng ASEAN đang từng bước trở thành một thực thể có bản sắc riêng của mình. Hiệp hội đang tích cực hoạt động để mục tiêu Cộng đồng kinh tế ASEAN trở thành hiện thực vào cuối năm 2015
    - Theovăn hóa tộc người, Đông Nam Á được quan niệm rộng hơn. Ngoài khu vực 11 nước như vừa trình bày trên đây, nó còn bao gồm cả dãi đất kéo dài từ Đài Loan, qua nam Trung Quốc (từ phía nam sông Dương Tử), vùng đông-bắc và nam Ấn Độ. Nói chung chung là toàn bộ khu vực bị chi phối bởi chế độ thời tiết khí hậu nhiệt đới, gió mùa của châu Á.
    VHNA: Từ một không gian địa lý, Đông nam Á đã trở thành một không gian văn hóa. Ông có thể cho biết những đặc trưng nổi bật của văn hóa Đông nam Á?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Sinh sống trong khu vực bị chi phối bởi hệ thống khí hậu nhiệt đới, gió mùa, các cư dân Đông Nam Á đã  sáng tạo nên những nền văn hoá tộc người và địa phương đa dạng, phong phú trên cơ tầng chung của văn hoá nông nghiệp. Họ chủ yếu sống bằng lúa gạo, với 2 hình thức canh tác: ruộng nước và nương rẫy; thuần dưỡng trâu, bò làm sức kéo; các bộ công cụ lao động và các hệ thống thủy lợi, dựa theo nguyên lý tự chảy của dòng nước được xây dựng hết sức đa dạng  phù hợp với các môi trường sinh thái thành ở đồng bằng, vùng thung lũng chân núi, vùng sườn dốc... Một bộ phận cư dân Đông Nam Á rất thạo các nghề trong môi trường sông nước, họ đánh bắt cá và các loài thủy hải sản khác trên sông, trên các hồ và đầm phá cũng như ở các vùng biển gần bờ. Nhiều ngành nghề thủ công như: dệt nhuộm (lụa và các loại coton, sợi bả, sợi chuối, sợi dứa…), đan lát, làm gốm, sơn mài, điêu khắc gỗ, kim hoàn... rất phát triển. Đây là khu vực đa dạng các hình thức trình diễn dân gian như rối bóng, rối nước; âm nhạc truyền thống và các loại nhạc cụ rất gần gũi với thiên nhiên. Tập quán ở nhà sàn rất phổ biến ở khắp nơi. Giá trị gia đình, tinh thần kính trọng người già được đề cao, tổ tiên được coi trọng; truyền thống cộng đồng làng/bản bền chặt. Trên nền tảng của những tín ngưỡng dân gian bản địa như vật linh giáo, các nghi lễ nông nghiệp, thờ phụng tổ tiên, shaman giáo… tiếp thu thêm Hindu giáo, Phật giáo, Islam giáo, Ki tô giáo…làm cho đời sống tâm linh khu vực hết sức đa dạng và phong phú. Việc thực hành các tín ngưỡng cùng  với sự đa sắc màu của các lễ hội làm cho bức tranh văn hóa khu vực có bản sắc riêng biệt.
    Quá trình tiếp nhận lâu dài ảnh hưởng văn hóa từ Ấn Độ, Trung Hoa, thế giới Ảrập và châu Âu càng làm gia tăng tính đa dạng về văn hoá và tôn giáo ở Đông Nam Á. Tuy vậy, những đặc điểm chung và sự tương đồng vẫn được tiếp nối, tạo bản sắc chung cho khu vực.
    VHNA: Tại sao người ta nói văn hóa Đông Nam Á thống nhất trong đa dạng?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: “Thống nhất trong đa dạng” là khẩu hiệu quốc gia của Indonessia. Thời kỳ mới giành độc lập để xây dựng được một quốc gia thống nhất trong bối cảnh về địa lý quốc gia này có hàng ngàn hòn đảo, về mặt tộc người có hàng trăm nhóm, về tư tưởng, văn hóa thì có vô vàn sự khác biệt... Indonesia đã đưa ra khẩu hiệu “Bhinneka Tunggal Ika”. Nghĩa đen của khẩu hiệu này là: “nhiều nhưng là một”, nội hàm này cũng có thể hiểu là “thống nhất trong đa dạng”. Khi nghiên cứu, các nhà nghiên cứu thường mượn ngữ nghĩa của khẩu hiệu này để mô tả hiện trạng bức tranh văn hóa của các dân tộc Đông Nam Á. Để hiểu biết chi tiết về vấn đề này cần nhiều thời gian, ở đây, tôi chỉ đưa ra vài ví dụ cụ thể mà thôi.
    Ví dụ các cư dân Đông Nam Á đều là cư dân nông nghiệp, lấy lúa gạo làm nguồn lương thực chính-đấy là thống nhất. Nhưng xung quanh việc canh tác cây lúa thì lại rất đa dạng: canh tác lúa khô khác với canh tác lúa nước; mà canh tác lúa nước ở vùng đồng bằng với canh tác lúa nước ở vùng thung lũng chân núi lại khác nhau: về hệ thống thủy lợi, về công cụ, về giống lúa  về qui trình canh nông, về các nghi lễ liên quan v.v...
    Ví dụ khác, trong truyền thống đa phần cư dân Đông Nam Á đều ở nhà sàn, đấy là thống nhất. Nhưng trong thực tế có vô vàn loại hình nhà sàn: nhà sàn ở vùng sườn dốc khác với nhà sàn ở vùng đất bằng, nhà sàn làm ở vùng khô khác với nhà sàn làm ở các vùng đầm lầy, ngập nước; nhà sàn dài khác nhà sàn ngắn, chưa nói là tập quán sống trong các loại nhà sàn khác nhau của các nhóm cư dân khác nhau là vô cùng đa dạng.
    Thêm một ví dụ khác, các cư dân Đông Nam Á đều thích và tự dệt nhuộm đồ vải để mặc, đấy là thống nhất. Nhưng từ nguyên liệu (lụa và các loại vải coton, sợi gai, sợi chuối, sợi dứa...) đến các kỷ thuật dệt và tạo hoa văn (sợi dọc sợi ngang, batic, ikat…), đến các mẫu quần áo, đồ trang sức thì vô cùng phong phú, đấy là đa dạng.
    Nói chung, không chỉ ở lĩnh vực văn hóa mà cả trên các lĩnh vực khác, đều có thể sử dụng khẩu hiệu “đa dạng trong thống nhất “ để mô tả. Ví dụ người ta vẫn thường nói rằng các nước Đông Nam Á mặc dù khác nhau về ý thức hệ, nhưng  các quốc gia sẳn sàng bỏ qua sự khác biệt ấy để hợp thành một Hiệp hội chung, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để cùng nhau phát triển chẳng hạn... Thật là lý thú phải không ?
    VHNA: Hằng số văn hóa tiêu biểu nhất của văn hóa Đông nam Á?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Nội dung này đã nói qua ở trên, ở đây chúng ta chỉ cùng nhau điểm lại một vài đặc trưng (có thể coi là hằng số) văn hóa Đông Nam Á như sau: Sống bằng lúa gạo; ở nhà sàn; nghề thủ công (dệt nhuộm, sơn mài, đan lát, gốm sứ, rèn đúc, kim hoàn...) rất phát triển; các loại hình nghệ thuật dân gian như múa mặt nạ, rối (rối bóng, rối nước, rối dây) ... rất đa dạng; tôn trọng người cao tuổi, đề cao tính cộng đồng; cùng tiếp thu các loại hình tôn giáo thế giới trên nền tảng tín ngưỡng vạn vật hữu linh, nghệ lễ nông nghiệp và tập tục thờ phụng tổ tiên...
    VHNA: Đông nam Á như một gạch nối Thái Bình Dương, cụ thể là Biển Đông, với Ấn Độ dương. Văn hóa Đông nam Á là khu vực chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa – văn minh lớn của nhân loại là Trung Hoa và Ấn Độ. Xin ông khái quát quá trình tác động, ảnh hưởng của hai nền văn hóa – văn minh này đối với Đông Nam Á?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Có thể nói vào thời đại Đông Sơn, là thời kì mà nền văn hoá của các tộc người ở Đông Nam Á phát triển tương đồng và rực rỡ nhất. Cho tới lúc bấy giờ trên cơ bản, văn hóa khu vực Đông Nam Á vẫn phi Hoa phi Ấn. Còn sau đó nền văn hoá của các tộc người ở khu vực này dần dần bị lu mờ bởi ảnh hưởng của hai nền văn minh lân cận: văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa. Hai nền văn minh này đã được áp đặt đối với Đông Nam Á trong hàng chục thế kỷ, đến mức người châu Âu đặt cho vùng này những cái tên như Greater India (đại Ấn), Hinteriadien (nội Ấn), hoặc Indochine (Trung-Ấn: Đông Dương). Người Hán đã thể hiện sự bành trướng của họ từ lưu vực phía nam sông Hoàng Hà cho tới tận vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ bằng những cuộc chiến tranh tàn khốc và bằng sự áp đặt chữ viết, văn hoá, thể chế chính trị xã hội và luật pháp... của họ cho những vùng mà họ chinh phục được. Với tính năng động và không gian xã hội rộng lớn của nền văn hoá Đông Sơn của người Việt mới chống lại được sự Hán hoá suốt nghìn năm Bắc thuộc của Trung Hoa.
    Nếu như quá trình bành trướng của người Trung Quốc diễn ra theo lối cuốn chiếu thì quá trình Ấn hoá lại tiến hành theo một sơ đồ đa trung tâm bằng nhiều đầu cầu dẫn tới một bán đảo văn hoá. Một bên là một cuộc chinh phục bằng quân sự ồ ạt từ bắc xuống nam, bên khác là trên các bờ biển Đông Nam Á từ lục địa đến hải đảo nhiều thương điếm được thiết lập, về sau trở thành những khu thương mại của Ấn kiều phát huy ảnh hưởng của chúng vào trong đất liền theo kiểu vết dầu loang.
    Sau ngàn năm Hán hoá và Ấn hoá các khu vực thuộc Đông bắc Á bị lu mờ bởi tác động của nền văn hoá Trung Hoa, còn các khu vực thuộc nam Á lại bị lu mờ bởi tác động của nền văn hoá Ấn Độ. Nhưng nói như thế không có nghĩa là các nền văn hoá bản địa hoàn toàn bị đồng hoá, sau ngàn năm giao lưu tiếp xúc về mặt văn hoá tộc người, khu vực Đông Nam Á vẫn được nhận diện trên ba nền tảng chính: ngôn ngữ tiền Nam đảo; văn hoá vật thể (thuộcvăn minh nông nghiệp) giống nhau; và vị thế của người phụ nữ được đề cao trong xã hội.
    Về sau các nền văn hoá bản địa ở khu vực Đông Nam Á ở các mức độ khác nhau đều cùng bị ảnh hưởng bởi nền văn hoá từ Ả rập và từ phương tây. Bối cảnh lịch sử như vừa trình bày đã góp phần làm cho nền văn hoá của khu vực cùng chịu chung những vận mệnh.
    VHNA: Có thể nói Đông Nam Á là ngoại biên của văn hóa Ấn và văn hóa Hán được không? Vì sao? 
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Như đã nói ở trên, trước đây khi người châu Âu lần đầu tiên đến Đông Nam Á thì họ cảm nhận như vậy. Bởi vì họ là người “bên ngoài” (Outdider) và lúc bấy giờ họ chưa đủ cảm nhận về văn hóa bản địa. Đến ngày nay thì tôi không còn nghĩ như vậy nữa. Bởi, mọi người thử liếc nhìn xem, ngoài các ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Hoa, khu vực Đông Nam Á còn chịu tác động mạnh từ văn hóa Ả rập, văn hóa Âu, Mỹ... và cơ bản là cả một nền tầng văn hóa bản địa, có thể coi là nền tầng văn minh nông nghiệp còn tồn tại rất mạnh mẽ- như đã đề cập ở các phần trên. Các cư dân Đông Nam Á, đã lựa chọn tiếp thu các yếu tố văn hóa được du nhập từ bên ngoài để xây dựng một nền văn hóa bản địa có bản sắc riêng của khu vực. Đây là nền tảng đang được phát huy để xây dựng Hiệp hội Đông Nam Á thành một thực thể có bản sắc văn hóa chung  mà.
    VHNA:  Trở lại với vị trí của Việt Nam, nhiều người cho rằng cơ tầng, hay là trầm tích văn hóa Việt là thuộc về Đông Nam Á. Thế nhưng, trải qua biến thiên lịch sử, các lớp trên của tầng văn hóa Việt đã bị Hán hóa rất nhiều. Thậm chí không ít lần giới nghiên cứu, và cả giới chính khách, vẫn cho rằng Việt Nam hiện đại thuộc không gian văn hóa Khổng giáo. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào? 
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Nhìn từ thượng tầng kiến trúc, nhất là ở khu vực miền bắc Việt Nam mọi người đều có cảm giác như vậy. Nhưng nhìn rộng hơn và sâu hơn thì có thể nghĩ khác. Đúng là Nho giáo ảnh hưởng rất mạnh mẽ ở nước ta, nhất là miền bắc. Nhưng nền tầng tiểu nông, xóm làng Việt Nam có rất nhiều phong tục lệ làng phi Nho giáo không phải là bối cảnh xã hội tốt để Nho giáo độc hành. Nên nhớ rằng một số triều đại của Việt Nam trước đây công khai chính thống đề cao khoa cử Nho giáo nhưng thực chất là phóng khoáng Rộng Dung Nho-Đạo-Phật cùng các tín ngưỡng dân gian rất đậm đặc khác. Mà ngày nay thì cũng vậy, theo tôi, Nho giáo ở Việt nam chỉ là “tinh thần” Nho giáo ấy thôi chứ chưa phải và không phải là Nho giáo chính thống.
    VHNA: Nếu vậy, Việt Nam có phải là gạch nối giữa không gian văn hóa Khổng giáo/Trung Hoa với Đông Nam Á có nhiều ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Tôi không nghỉ như vậy, bởi vị trí địa văn hóa của Việt Nam nên miền bắc Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng văn hóa Nho giáo, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và các nền văn hóa khác. Còn miền nam Việt Nam ảnh hưởng của Nho giáo nhạt hơn và ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ đậm hơn. Nhưng nhìn chung nền tầng văn hóa Việt Nam vẫn mang tính bản địa Đông Nam Á rõ nét.
    VHNA:  Xét về hiện tượng, chúng tôi thấy, trong lịch sử hiện đại, từ cấu trúc địa văn hóa hình như đã ảnh hưởng đến cấu trúc địa chính trị của khu vực này. Việt Nam chịu ảnh hưởng và gắn bó nhiều hơn với văn hóa Hán nên đã có sự lựa chọn chính trị, lựa chọn con đường phát triển khác với phần còn lại của khu vực. Đó là hiện tượng, liệu nó có nguyên nhân từ trong thẳm sâu cơ tầng văn hóa không, thưa ông? 
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Có thể là như vậy, nhưng cần phải nhớ rằng việc lựa chọn con đường phát triển cho một quốc gia thường bị tác động bởi các bối cảnh lịch sử cụ thể lúc đương thời. Đã có thời kỳ Việt Nam lựa chọn con đường phát triển khác phần còn lại của Đông Nam Á, nhưng việc lựa chọn ấy đâu có ngăn cản Việt Nam quay lại hội nhập khu vực Đông Nam Á, và ngày nay Việt Nam là một thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ấy thôi.
    VHNA: Ta hay nói rằng văn hóa Việt Nam có phẩm chất khoan dung. Đó là do cơ tầng, cơ địa của cư dân sông nước, làm lúa nước hay là giải pháp tình thế bởi văn hóa Việt Nam chịu sự ảnh hưởng rất sâu của văn hóa Hán?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Tôi cho rằng phần khoan dung trong văn hóa Việt có căn nguyên trong văn hóa nông nghiệp, từ tàn tích dân chủ (theo cách nói của nhà dân tộc học đã quá cố: Nguyễn Đức Từ Chi) trong các cộng đồng làng xã, từ nền tầng của các xã hội coi trọng và đề cao vai trò của người phụ nữ. Những gì như vừa đề cập về cơ bản đều tồn tại trong văn hóa bản địa của toàn bộ khu vực Đông Nam Á chứ không riêng gì ở Việt Nam. 
    NHNA: Các quốc gia – dân tộc Đông Nam Á đều có văn hóa đa sắc tộc. Hiện nay nhiều nước Đông Nam Á đã và đang có tốc độ phát triển rất nhanh và vững chắc. Một trong những nguyên nhân là họ đã có quan điểm khoa học, khách quan và chính sách phát triển văn hóa rất thực tế, thiết thực. Xin đề nghị ông giới thiệu một số những quan điểm và chính sách văn hóa nổi bật của họ?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Đúng là hầu khắp các quốc gia Đông Nam Á đều giống Việt Nam: đa sắc tộc, đa văn hóa. Đa sắc tộc, đa văn hóa là một trong các “tài nguyên” để phát triển, nhưng từ góc nhìn quản lý điều đó cũng là một thách thức: làm thế nào để vừa duy trì được sự đa dạng ấy mà vừa quy tụ chúng thành một bản sắc chung đảm bảo ổn định cho từng quốc gia dân tộc  phát triển? Đây là một vấn đề khó khăn phức tạp, và mỗi quốc gia đều có cách lựa chọn riêng. Nhưng nhìn từ góc độ quan điểm và chính sách thì hầu như các quốc gia Đông Nam Á đều ưu tiên, đều nhấn mạnh đến tính thống nhất của quốc gia dân tộc. Trước khi đi đến một vài ví dụ cụ thể chúng ta cũng nên hiểu trách nhiệm của một thể chế xã hội đối với lĩnh vực văn hóa. Theo đó, có thể quy về hai nhiệm vụ chung: một là thể chế có trách nhiệm đề ra cương lĩnh văn hóa, hai là xây dựng các cơ cấu tổ chức để quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa. Việc thực hiện cả hai nhiệm vụ lớn này giữa Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á, từ góc độ nghiên cứu chúng ta có thể nhận ra một số nét khác biệt.
    Về quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa, nhìn chung các cơ quan về văn hóa cấp quốc gia ở khu vực Đông Nam Á đều tập trung đề ra các luật về văn hóa, các quy chuẩn văn hóa... và sử dụng chúng như các công cụ để quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa. Các cấp địa phương (như tỉnh, huyện đặc biệt là các cộng đồng chủ thể văn hóa) phải tuân thủ pháp luật và các văn bản có tính pháp luật để tổ chức quản lý và hoạt động văn hóa cụ thể. Các cơ quan nhà nước đầu tư và hỗ trợ một phần tài chính và các cơ sở vật chất khác và thông qua các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức hoạt động văn hóa (quan phương và phi quan phương) để hỗ trợ các cộng đồng về chuyên môn và nghiệp vụ hoạt động văn hóa. Còn ở Việt Nam thì như mọi người đều đã biết, tính hành chính còn nặng trong quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa. Các cơ quan văn hóa cấp trung ương áp đạt cách quản lý và cả chuyên môn nghiệp vụ xuống cấp dưới như tỉnh, huyện, xã và đôi lúc áp đặt xuống cả các cộng đồng chủ thể, mọi thứ đều được diễn theo kịch bản. Kết quả, cả thành tựu và hệ lụy mà hai cách quản lý khác nhau thu được thì mọi người đều có thể suy ngẩm được.
    Về xây dựng cương lĩnh văn hóa. Như đã đề cập, hầu khắp các quốc gia Đông Nam Á đều ưu tiên mục tiêu thống nhất quốc gia dân tộc và nội dung của cương lĩnh được xác định rõ ràng.
    Ví dụvề cương lĩnh ý thức hệ Pancasilacủa Indonesia. Cương lĩnh này được đề xuất sau khi Indonessia dành được độc lập (17/8/1945), Pancasila trở thành một thứ triết lý nhằm thống nhất quốc gia. Năm 1975, Pancasila được đưa vào nhà trường. Từ năm 1978 trở đi, Pancasila trở thành kim chỉ nam cho toàn bộ xã hội.  Pancasila là một hệ thống bao gồm 5 nguyên tắc hay năm tín điều (ngũ giới).       
    Nguyên tắc thứ nhất, tin vào một chúa trời (Belief in One God). Nguyên tắc này không quy định phải tin vào một tôn giáo riêng biệt, cụ thể nào trong hàng trăm tôn giáo hiện hữu ở Inđônêsia, nhằm lôi kéo hoặc bao quát tất cả mọi người dân mộ đạo ở đất nước này. Như vậy cũng có nghĩa nó từ chối dành sự ưu tiên cho Hồi giáo.                             
    Nguyên tắc thứ hai là bảo đảm sự thống nhất của Inđônêsia.                                 
    Nguyên tăc thứ ba là thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn.              
    Nguyên tắc thứ tư là thực hiện công bằng xã hội.                                                   
    Nguyên tắc thứ năm là xây dựng một xã hội dân chủ.
    Theo một số nhà nghiên cứu, thực chất Pancasila là một thuyết đa nguyên tôn giáo và đã được tất cả các nhóm tộc người hưởng ứng, tham gia, vì dưới hình thức Pacansila, tự do tôn giáo được đảm bảo, không có một tôn giáo nào, dù là Hồi giáo, có quyền và vị trí độc tôn. Có thể là chưa tối ưu, nhưng cương lĩnh Pancasilađã đảm bảo cho một nước rất đa dạng về văn hóa, tộc người, tôn giáo và có những hệ tư tưởng khác biệt như Indonesia đảm bảo sự ổn định tương đối để phát triển.
    Ví dụ khác về cương lĩnh của Rukunegara của Malayssia. Malaysia cũng là một quốc gia đa chủng tộc, đa tôn giáo, bao gồm 3 nhóm người chính: người Melayu, người Hoa, người Ấn và các tộc người bản địa khác, trong đó người Melayu chiếm 50% dân số, giữ vị trí thống trị về chính trị nhưng lại yếu về kinh tế, còn người Hoa, chiếm 30% dân số, được xem như dân di cư, vị thế chính trị thấp, nhưng lại nắm kinh tế. Thuyết “ngũ giới” Rukunegara, ý thức hệ quốc gia nhằm tạo ra sự thống nhất đất nước, hòa hợp dân tộc của quốc gia này cũng  gồm năm điểm:
    - Tin ở thượng đế.
    - Trung thành với quốc vương và đất nước.
    - Giữ gìn hiến pháp.
    - Cai trị bằng pháp luật.
    - Hành vi đạo đức tốt.
    Nhìn từ góc độ văn hoá, có thể thấy, tham vọng của Rukunegara là nhằm tạo ra sự dân chủ trong xã hội, sự khoan dung về tôn giáo, sự đa dạng về văn hoá tộc người nhưng vẫn khẳng định được vị thế về chính trị, văn hoá của người Meleyu.
    Ví dụ cuối về cương lĩnh của Singapore. Đảo quốc này có nét đặc trưng riêng. Là một nước nhỏ, diện tích chỉ có 647km2, với khoảng 4 triệu dân, nhưng Singapore cũng là một xã hội đa nguyên về chủng tộc, đa nguyên về văn hoá, trong đó người Hoa chiếm tới 78%, người Melayu chỉ có 15 %, còn lại là một số chủng tộc khác. Xã hội Singapore tiềm ẩn xung đột giữa các nền văn hoá: văn hoá Trung Hoa, văn hoá Melayu, văn hoá phương Tây….Để đảm bảo mối quan hệ giữa các tộc người được bền vững, Singapore đưa ra một hệ giá trị chung của quốc gia, bao gồm 5 điểm:
    1. Quốc gia là tối cao, xã hội là trên hết.
    2. Gia đình là gốc, xã hội là căn bản.
    3. Quan tâm giúp đỡ và cùng thuyền cứu giúp lẫn nhau.
    4. Cầu đồng tồn dị, hiệp thương nhận thức chung.
    5. Hài hoà chủng tộc, khoan dung tôn giáo.
    Có thể nói, mặc dù được xếp cuối cùng, nhưng trong hệ thống giá trị này, sự hài hoà chủng tộc, khoan dung tôn giáo có một vị trí đặc biệt trong sự ổn định, thống nhất và phát triển quốc gia. Có người cho rằng, đây là giá trị quan trọng nhất của Singapore, làm cho Singapore khác với Hông Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là những quốc gia, vùng lãnh thổ vốn chịu ảnh hưởng mạnh của nền văn hoá Hán.
    Các quốc gia Đông Nam Á khác đều có cương lĩnh văn hóa tương tự như 3 ví dụ trên đây. Khác chăng chỉ là ở chổ các quốc gia lấy đạo Phật làm quốc giáo thì họ lấy triết lý Phật giáo làm nền tàng tinh thần cho xã hội.
    Trở lại với cương lĩnh văn hóa của Việt Nam, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nhưng thế nào là tiên tiến, thế nào là bản sắc dân tộc thì chúng ta chưa xác định một cách cụ thể. Một sự khác biệt nữa là trong khi các nước Đông Nam Á coi các triết thuyết của các tôn giáo như là một nền tảng tinh thần để xây dựng cương lĩnh thì ở Việt Nam lúc thì đề cao Nho Giáo, lúc lại đề cao Phật Giáo, thậm chí có người còn muốn đặt Đạo Mẫu ở vị trí trung tâm. Nói chung là giới học giả Việt Nam chưa đi theo hướng tìm kiếm một nền tảng tinh thần chung mà các tôn giáo các dân tộc khác nhau có thể chấp nhận như cách làm của các nước Đông Nam Á.
    VHNA:  Việt Nam chúng ta có thể rút ra được kinh nghiệm gì từ thực tiễn bảo tồn và phát triển văn hóa của các quốc gia Đông nam Á?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Theo tôi chúng ta nên tìm hiểu và có thể tham khảo một số vấn đề mà các nước xung quanh đã thực hiện như sau:
    • Hoàn thiện cương lĩnh tinh thần làm nền tảng để hoạt động văn hóa
    • Xác lập được các quy chuẩn văn hóa
    • Trong thực tiển quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa nên đề cao vai trò trách nhiệm của các cộng đồng chủ thể văn hóa; giảm dần tính chất hành chính trong các hoạt động này.
    VHNA:Trở lại câu chuyện địa văn hóa – chính trị, có phải từ mấy ngàn năm nay, ít nhất là từ Công nguyên trở lại đây, chúng ta luôn phải ở trong tình thế nước đôi, tự giằng xé và bị giằng xé, níu kéo giữa Hán và Đông Nam Á, trên cả hai phương diện, văn hóa lẫn chính trị? Sự giằng xé, níu kéo đó có làm hao tổn năng lượng sáng tạo, phát triển của dân tộc?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Đúng vậy, nhưng nên nhớ rằng chúng ta có quyền lựa chọn và khi được quyền lựa chọn thì chúng ta nên lựa chọn một cách thông minh nhất.
    VHNA:Vậy, chúng ta nên có sự lựa chọn  như thế nào để có lợi cho sự phát triển bền vững, cả về kinh tế và văn hóa?
    PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu: Tôi không thể nêu cụ thể cách lựa chọn nào cả, nhưng về nguyên tắc lựa chọn, theo tôi, chúng ta có thể học tập nguyên tắc lựa chọn của Singapore, của các quốc gia Đông Nam Á khác: Lợi ích quốc gia là tối cao, lợi ích xã hội là trên hết. Cứ theo tinh thần đó tôi tin là chúng ta có thể lựa chọn được cho mình con đường phát triển bền vững.
    VHNA:Vâng, xin cám ơn ông về cuộc trao đổi. Hy vọng chúng ta sẽ có dịp tiếp tục câu chuyện một cách kỹ càng hơn./.

    Phan Thắng thực hiện