Ảnh hưởng của Islam giáo đối với Inđônêxia thời kì trung đại
Inđônêxia là đất
nước có tỉ lệ người theo Islam giáo chiếm 90% dân số cả nước. Đây là một cộng
đồng Islam giáo lớn nhất khu vực và thế giới. So với các tôn giáo khác như ấn
Độ giáo, Phật giáo, v.v… quá trình cải đạo theo Islam giáo của cư dân ở đây
diễn ra nhanh, rộng, sâu hơn rất nhiều. Quá trình này diễn ra chủ yếu vào thời
kì trung đại từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVII, và cho đến hiện nay vẫn còn tiếp
diễn ở một số đảo trên quốc đảo rộng lớn này.
Những yếu tố thiên nhiên đa dạng, trình độ dân trí có hạn ...là những
nguyên nhân dẫn đến việc xuất hiện các tôn giáo mang tính cứu thế suốt thế kỷ
XIX, và rộ lên vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nam Bộ có hai địa điểm huyền
bí: miền Bảy Núi và núi Bà Đen, là các trung tâm xuất hiện hai tôn giáo mới:
đạo Cao Đài và đạo Hòa Hảo.
Những tôn giáo mới xuất hiện Những lưu dân từ miền Trung hay miền Bắc vào Nam Bộ vốn trước đây sinh sống ở những vùng tương đối thuần nhất xét về phương diện môi trường. Khi họ di cư vào Nam Bộ, họ thấy một thiên nhiên đa dạng và bí ẩn. Ruộng đồng mặc sức chim bay, biển hồ lai láng, cá bầy đua bơi” hay, ‘Tới đây xứ sở lạ lùng, con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”. Môi trường nơi con người sinh sống có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách, đến việc hình thành những đặc trưng văn hóa vật chất cũng như văn hóa tinh thần của một cộng đồng. Mảnh đất này còn là nơi sinh sống của nhiều cộng đồng tộc người vốn từng sinh sống lâu đời hay mới di cư tới. Sự xáo trộn về phương diện dân cư thường bị tác động bởi nhiều yếu tố mà kết quả cuối cùng là dẫn đến sự giao lưu văn hóa. Do cư dân ở đây vốn là tín đồ của các tôn giáo khác nhau nên cũng đã xảy ra sự tiếp nhận các yếu tố tôn giáo khác nhau. Hiển nhiên trong sự giao lưu đó sẽ có cả những yếu tố tích cực và cả yếu tố mê tín dị đoan. Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý là ảnh hưởng của môn phong thủy (geomancie) xem vùng đất thuộc đồng bằng sông Cửu Long như là một vùng linh địa, miền đất thiêng, nơi xuất hiện những nhân vật hiển linh cứu người. Trong bối cảnh như vậy, những yếu tố thiên nhiên đa dạng, trình độ dân trí có hạn được giải thích một cách huyền bí là những nguyên nhân dẫn đến việc xuất hiện các tôn giáo mang tính cứu thế suốt thế kỷ XIX, và rộ lên vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. G.Cuolet đã có những miêu thuật khá tốt trong cuốn sách Những xã hội kín trên đất An Nam . Đó là một đặc trưng đáng lưu ý ở Nam Bộ với hai địa điểm huyền bí: miền Bảy Núi và núi Bà Đen. Đó cũng là hai trung tâm xuất hiện hai tôn giáo mới: đạo Cao Đài và đạo Hòa Hảo. Đạo Cao Đài được một nhóm trí thức và giới thượng lưu thời Pháp thành lập vào năm 1926, hỗn hợp giáo lý của các tôn giáo đương thời (kiểu tôn giáo Islam) nhuốm mầu sắc Đạo giáo về nội dung và phương pháp hành lễ lấy kinh nghiệm tổ chức đạo của Công giáo, tôn Đấng Chí tôn ngồi trên đài trên cao như một Đấng tối cao, đứng trên các vị sáng lập các tôn giáo Đông Tây theo nguyên tắc Tam giáo đồng nguyên, ngũ chi hợp nhất (Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo, Công giáo và đạo Phong thần của Khương Tử Nha). Đạo phát triển mạnh ở miền Đông Nam Bộ, sau tràn lan ra khắp miền Nam. Đạo Hòa Hảo thì ngược lại, lại xuất hiện ở miền Bảy Núi ra đời năm 1939 tại làng Hòa Hảo – làng của người đứng ra lập đạo Huỳnh Phú Sổ và cũng vì vậy mà đạo này được gọi là đạo Hòa Hảo. Đạo kế thừa truyền thống của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (1848) và đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát triển rộng rãi ở đồng bằng sông Cửu Long, giáo lý dựa trên truyền thống của các tôn giáo dân tộc và đạo Phật được phổ thông hóa bằng bốn điều: ơn Tổ quốc, ơn Pháp bảo, ơn đồng bào, nhân loại được thể hiện qua các bài sấm truyền theo hình thức song thất lục bát của giáo chủ Huỳnh Phú Sổ tự nhận là người được thánh nhân phù trợ, trời sai xuống cứu thế trước là cứu thể xác (chữa bệnh) sau là cứu linh hồn. Triết lý của đạo mộc mạc, lễ thức đơn giản chỉ thờ một tấm trần điều, hương hoa, nước lã tại gia không có nơi thờ tự công cộng, thích hợp với tâm lý và tình cảnh của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long.Và cũng lại chính vùng đất Nam Bộ trong thời kỳ tiến hành hai cuộc kháng chiến cho đến nay, nảy sinh và phát triển những đạo mới trong đó có đạo Dừa, một số đạo phái Tin lành khác xa với giáo lý của đạo Tin lành chính thống cũng như một số hiện tượng tôn giáo mới như Long Hoa Di Lặc, Thanh Hải vô thượng sư. Chúng tôi đã nêu lên một số nguyên nhân dẫn đến sự ra đời những tôn giáo bản địa ở Nam Bộ vào những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các nghiên cứu gần đây cũng đã giải thích những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của các tôn giáo bản địa ở Nam Bộ. Trong bài viết "Đạo Cao Đài - một thực tiễn khách quan, một thế ứng xử" Gs. Đặng Nghiêm Vạn đã đưa ra “một số nguyên nhân dẫn đến đạo Cao Đài trở thành tôn giáo” như sau: - Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho đến ngày nay. Sự xuất hiện các tôn giáo hay một số hiện tượng tôn giáo mới thường do những nguời ở tầng lớp giàu có, tri thức đương thời khai sáng. Đạo Cao Đài hơn các đạo mới thành lập khi mọc, khi lặn ở chỗ đã hiểu được tâm lý xã hội người nông dân Nam Bộ đương thời. - Về phương diện tôn giáo, điều đáng lưu ý nhất là đạo Cao Đài mang tính thực tiễn. Có thể có các cách lý giải khác nhau về nguyên nhân ra đời các tôn giáo bản địa Nam Bộ. Nhưng có một thực tế là các tôn giáo chỉ ra đời trong xã hội của người Việt Nam Bộ và cũng chỉ giới hạn trong phạm vi đó. Sự tác động của tôn giáo lên đời sống Rõ ràng xã hội của người Việt Nam Bộ và bối cảnh của xã hội Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời các tôn giáo ở Nam Bộ và cũng chính những điều đó lại chế định vùng ảnh hưởng của các tôn giáo đó. Khi các tôn giáo đó ra đời và xác lập được vị trí của mình trong đời sống của cư dân Nam Bộ đến lượt mình các tôn giáo mới lại tác động đến đời sống mọi mặt của cư dân. Bởi vì, một sự du nhập hay là sự xuất hiện của một tôn giáo ở một xã hội nào đó nếu xét trên bình diện văn hóa là sự xuất hiện một thành tố văn hóa mới. Tôn giáo, dù là những tôn giáo có tính quốc tế (như Phật giáo, Công giáo…) hay một tôn giáo có tính khu vực (như Ấn Độ giáo, Khổng giáo…) hay có tính địa phương (như Cao Đài, Hòa Hảo…) cũng chỉ là một thành tố (component) văn hóa của một tộc người. Vì rằng, trước khi các tôn giáo đó du nhập hay mới xuất hiện ở một tộc người thì bản thân tộc người đó đã có một nền văn hóa của mình. Nhờ có những giá trị văn hóa nên các tộc người mới tồn tại và phát triển Cho nên, mặc dù tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống mọi mặt của một tộc người, thậm chí còn là nền tảng văn hóa của một tộc người nhưng không phải là tất cả. Văn hóa của một tộc người bao gồm những giá trị vật thể và phi vật thể mà tôn giáo chỉ là một trong nhiều thành tố (component) góp phần làm phong phú văn hóa của tộc người. Tôn giáo không phải là tổng thể văn hóa của một tộc người. Nhưng “tôn giáo là hình thái ý thức xã hội ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay, tồn tại cùng loài người trong một thời gian khó mà đoán định trước được. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, tư tưởng văn hóa - xã hội và tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc của các tầng lớp người, nhất là đối với thế hệ trẻ” . Một nhận định có tính chất bao quát như vậy theo chúng tôi cũng rất phù hợp với tình hình thực tế ở Nam Bộ khi các tôn giáo bản địa ra đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Và trong bối cảnh cụ thể của Nam Bộ khi các tôn giáo mới ra đời cũng có ảnh hưởng nhất định đến đời sống mọi mặt của cư dân. Chúng tôi được trở lại vấn đề các tôn giáo bản địa ra đời ở Nam Bộ vào những thập kỷ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống mọi mặt của cư dân Nam Bộ, trong đó có tín ngưỡng, tôn giáo. Như là một hệ quả, các tôn giáo đó với tư cách là một thành tố văn hóa mới đã góp phần làm phong phú thêm văn hóa của người Việt Nam Bộ. Các tôn giáo bản địa ra đời vào các thời điểm khác nhau nhưng đều ra đời ở Nam Bộ mà tín đồ chủ yếu là nông dân, địa bàn cư trú chủ yếu vẫn là nông thôn nơi có điều kiện bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống. Nếu như trước đây trong không gian văn hóa Nam Bộ, người Việt với những giá trị văn hóa truyền thống của mình đã cùng cộng cư với người Khmer, người Hoa, người Chăm có những đặc trưng văn hóa riêng đã tạo nên bức khảm văn hóa khá đa dạng. Tuy nhiên, văn hóa người Việt vẫn là một thể thống nhất cho dù có một bộ phận người Việt theo Phật giáo hoặc Công giáo với số lượng hạn chế. Thì giờ đây khi xuất hiện các tôn giáo mới cho dù có được tổ chức chặt chẽ hay không, có hệ thống giáo lý hay không, một sự kế thừa các tôn giáo có trước, hay là một sự hỗn dung thì các tôn giáo đó vẫn tồn tại như một thực thể và chính những điều đó đã góp phần làm cho bức tranh văn hóa Nam Bộ thêm phong phú. Những quy định của giáo luật mà mỗi tín đồ của các tôn giáo này thực hiện và phải tuân thủ (như quy định về y phục, lễ phục, việc búi tóc, hình thức thờ cúng, lễ vật, …) đã làm cho họ khác với những người không theo các tôn giáo đó. Có một thực tế là các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng văn hóa Việt, mà cái nôi là đồng bằng sông Hồng có truyền thống ngàn năm đã hằn sâu vào tiềm thức các thế hệ người Việt cho dù họ sinh sống ở đâu. Những lễ hội truyền thống, việc thờ cúng tổ tiên những quan hệ dòng họ, quan hệ làng xã là hằng số văn hóa tạo nên bản sắc không dễ dàng có thể loại bỏ. Các tôn giáo mới ra đời trong sự kế thừa và hỗn dung các tôn giáo có trước không đủ mạnh để thiết lập ảnh hưởng một cách tuyệt đối nên không đủ sức phá vỡ nền tảng văn hóa truyền thống bền vững của người Việt, để xác lập vị trí độc tôn của tôn giáo mới như chúng ta đã thấy hiện tượng đó đã xảy ra ở một số nơi . Do đó, ảnh hưởng của các tôn giáo này đến đời sống tín ngưỡng người Việt cũng có giới hạn. Điều này cũng cắt nghĩa tại sao các tôn giáo mới ra đời ở Nam Bộ lại không cực đoan như một số giáo phái mới ra đời ở các nơi khác, thường mở rộng vùng ảnh hưởng cũng như giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp tôn giáo bằng các cuộc bạo lực vũ trang mang nặng tính ký thị tôn giáo. Và nó cũng thể hiện khả năng tiếp biến văn hóa của người Việt trong môi trường mới. Những người nông dân Việt trong quá trình khai hoang lập làng cùng cộng cư với các tộc người khác, có ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo khác biệt nhưng bằng năng lực và dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống đã biết cởi bỏ những ràng buộc không còn phù hợp để tiếp nhận có chọn lọc những giá trị văn hóa của các tộc người khác làm phong phú văn hóa, nhưng lại không làm mất đi những nét đẹp của văn hóa truyền thống. Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều thể hiện tính nhập thế như là một trào lưu diễn ra trong suốt thế kỷ XIX và rộ lên vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Mặc dù Phật giáo Hòa Hảo nói pháp môn là học Phật tu nhân nhưng trong thực tế đời sống nhiệm vụ của người tín đồ tập trung vào tu nhân. Thực hiện tu nhân các tín đồ chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa truyền thống Việt Nam và đi vào cụ thể hơn như đã được nhấn mạnh trong quan điểm tứ trọng đại ân: ân tổ tiên, cha mẹ, ân quê hương, đất nước, ân Tam bảo, ân đồng bào, nhân loại. Còn đối với Cao Đài, trừ nhóm nhỏ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, còn các phái khác đều tự xem là phổ độ, hướng dẫn đồng bào tu hành để được giải thoát. Các hoạt động thực tiễn của Cao Đài và Hòa Hảo kể từ khi lập đạo cho đến năm 1975 khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, khi mà ở một mức độ nào đó vai trò của những người đứng đầu các tôn giáo này đã giảm, đã thể hiện rõ tính nhập thế. Những người đứng đầu các tôn giáo này thậm chí đã thành lập các đảng phái chính trị, các lực lượng vũ trang tham gia tích cực vào đời sống chính trị, trở thành những thế lực nhất định trên chính trường ở miền Nam trước năm 1975. Với tinh thần bình đẳng, khoan dung, ý thức trách nhiệm chia sẻ với đồng loại, có một hoạt động mang tính xã hội rất tiêu biểu của các tín đồ hai tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo là việc làm từ thiện. Là một người sinh ra và lớn lên ở miền Bắc khi vào công tác ở miền Nam lúc đầu chúng tôi rất ngạc nhiên về hoạt động nhân đạo của các tổ chức và các cá nhân, nhất là các tôn giáo. Bất kỳ một sự thiệt hại nào do thiên tai gây ra cho đồng bào ở các vùng miền khác nhau như lũ lụt, bão gió thì có ngay một phong trào quyên góp ủng hộ, chia sẻ. Với các tín đồ của các tôn giáo bản địa, những hoạt động từ thiện còn nằm trong đường hướng tu hành, với một tinh thần chia sẻ khó khăn khi hoạn nạn, việc làm từ thiện được các tín đồ thực hiện hàng ngày và rất tự nhiên. |
Vào thế kỉ XIII,
các vương quốc nhỏ ven biển đông Xumatơra như Đơly, Malayu (Giămbi), Péclai,
Paxai đã tiếp thu Islam giáo. Sang thế kỉ XIX, Islam giáo lan nhanh sang vùng
biển bắc Xumatơra vào Lamuri (Ramni), Xumađra… Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII
Islam giáo du nhập mạnh mẽ vào Giava (Demac, Giaparan, Turan), vào Mulucca,
Ache, Pagiang, Xulavixi… Bản chất của Islam giáo là có tính quần chúng, phổ cập
hơn các tôn giáo khác, khi đến Inđônêxia, Islam giáo được xem là một tôn giáo
đơn giản, bình đẳng, dễ thích ứng với các điều kiện địa phương, không cản trở
các tín ngưỡng cổ xưa. Khi du nhập vào Inđônêxia Islam giáo: “Có xu hướng tha
thứ các tập quán và những tín ngưỡngkhông hợp
lệ với luật tục khắt khe của Islam
giáo chính thống”(1). Với những ưu điểm đó, Islam giáo không gặp
phải sự chống đối của những tôn giáo tín ngưỡng bản địa. Hơn nữa, vào thời điểm
Islam giáo du nhập vào, ấn Độ giáo đã suy yếu, khủng hoảng bởi các cuộc đụng
đầu, tranh chấp diễn ra giữa các vương quốc, và do sự suy tàn của các vương
quốc ấn Độ giáo cũng là yếu tố quan trọng để Islam giáo lan toả nhanh hơn.
Islam giáo đến với Inđônêxia chủ yếu do thương nhân theo Islam giáo người ấn Độ
đưa vào, nó đã “mềm hoá” nhờ quá trình đồng hoá nhiều lễ nghi ấn Độ và
đặc biệt là bị quá trình “ấn Độ hoá”,
chính vì vậy, được dân chúng chấp nhận dễ dàng. Islam giáo du nhập vào Inđônêxia bằng
con đường thương lượng, hoà bình, không phải bằng con đường chiến tranh “thần
thánh” để áp đặt tôn giáo như ở một số nơi khác nên được giới cầm quyền cũng
như cư dân trên quần đảo niềm nở đón tiếp. Có thể còn có nhiều nguyên nhân khác
nữa, nhưng những gì chúng ta tiếp cận được, có nhân tố chủ quan, khách quan đã
góp phần làm sáng tỏ vì sao Islam giáo lan nhanh, rộng, sâu vào Inđônêxia.
Quá trình cải đạo
theo Islam giáo của đa số cư dân Inđônêxia đã làm thay đổi có tính toàn diện ở
quần đảo này, nó tác động trực tiếp, sâu sắc tới đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội, tín ngưỡng, ngôn ngữ, văn hoá, giáo dục.
Về phương diện kinh
tế, sự xuất hiện của Islam giáo phù hợp với sự phát triển kinh tế thương mại,
những thương nhân ấn Độ theo Islam giáo có công lao to lớn trong việc thúc đẩy
phát triển thương nghiệp. Những thương nhân ấn Độ theo Islam giáo khi đến quần
đảo này mục đích chính không phải để truyền đạo mà là trao đổi buôn bán, làm
giàu. Tuy nhiên, để đạt được tham vọng đó, họ đã kết hợp với “truyền đạo”, là
cách thức, con đường tốt nhất để xâm nhập vào thế giới thị trường rộng lớn,
giàu nguồn nguyên liệu, hương liệu, sản vật quý hiếm. Và trong thực tế, việc
cải đạo của cư dân ở đây đã giúp cho việc trao đổi buôn bán dễ dàng, thực sự
góp phần quan trọng thúc đẩy buôn bán. Đúng như nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh đã
nhận xét rằng, “việc cải đạo sang Islam giáo của Xumađra-Paxai, Bắc Giava, và
các vùng khác ở quần đảo Mã Lai đã góp phần thúc đẩy việc buôn bán với phương Tây và sự lớn mạnh của các quốc gia
Islam giáo(2). Sự hưng thịnh của các cảng, trung tâm thương mại cũng
được tác giả cho biết: là do sự cải đạo sang Islam giáo của các tiểu vương đó.
Dưới tác động của các thương nhân ấn Độ theo Islam giáo kinh tế thương mại
Inđônêxia phát triển mạnh, trở thành trung tâm trao đổi hàng hoá quốc tế, là
nơi bán các sản vật của quần đảo như lương thực, muối, bông, thuốc nhuộm, đồng,
chì, thiếc, sắt, đặc biệt là hồ tiêu. Những thương cảng, trung tâm thương mại
trao đổi buôn bán như Ramni, Xumađra-Paxai, Demac, Môluca, Gia Paran, Tu Ran,
Ban Tan, Ache làm cho Inđônêxia trở thành đại thị trường, một cầu nối quan
trọng trong nền mậu dịch Đông Nam á với thế giới. ở đây có mặt thương nhân của
nhiều nước như Bồ Đào Nha, Miến Điện, Hà Lan, Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kì, Iran… và
nhất là người ấn Độ, người Trung Quốc. Trong những thương cảng, trung tâm trao
đổi buôn bán nổi tiếng, Xumađra-Paxai và Ache là hai trung tâm sầm uất, phồn
thịnh, giàu có nhất. Xumađra- Paxai là hải cảng nằm ở biển bắc Xumatơra, vào
thế kỉ XIII, đây là nơi dừng chân cho những thương nhân buôn bán giữa ấn Độ và
Trung Quốc. Tuy nhiên, vào giai đoạn sau nó phải chuyển sâu vào trong đất liền
đến Paxai để tránh những cuộc tấn công của cướp biển. Quốc gia Islam giáo
Xumađra-Paxai được hình thành từ đó. Vị trí của Xumađra-Paxai được đánh giá rất
quan trọng: “Là một trung tâm trao đổi buôn bán quốc tế lớn của khu vực… là
trung tâm buôn bán sầm uất của đảo Xumatơra, là nơi thu gom hồ tiêu từ nơi khác
tới”(3). Ngoài những mặt hàng xuất khẩu, Xumađra còn là nơi cung cấp
những sản phẩm cần thiết không thể thiếu cho các thương nhân từ các nơi khác
nhau đến đây, như lương thực, thực phẩm, nước ngọt. Quốc gia Islam giáo -
Trung tâm thương mại Ache xuất hiện muộn hơn Xumađra-Paxai, song thời gian hưng thịnh kéo dài, sầm uất hơn nhiều.
Vào thế kỉ XV Ache trở thành trung tâm xuất nhập khẩu quan trọng nhất trong
việc buôn bán của người ấn Độ và người theo Islam giáo khu vực Tây á với quần
đảo. Bạn hàng đến đây ngày càng đông hơn, ngoài những bạn hàng truyền thống
theo Islam giáo còn có thương nhân người Trung Quốc, người phương Tây.
Sự
lan toả của Islam giáo, kinh tế thương mại phát triển, đã tác động sâu sắc tới
lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và bộ mặt đời sống nông thôn. Hồ tiêu, một nguyên
liệu quý hiếm, trở thành một mặt hàng xuất khẩu có giá trị, đem lại nhiều lợi
nhuận, nên đa số nông dân đã chuyển đổi giống cây trồng sang “chuyên canh”
trồng cây hồ tiêu. Và do hồ tiêu do rất giá trị và quý hiếm nên thương nhân các
nước không chỉ đến trao đổi buôn bán ở các thành thị, hải cảng mà còn vào vùng
nông thôn, nơi trực tiếp sản xuất để trao đổi buôn bán. Vì vậy, quá trình
thương mại hoá ở nông thôn cũng được diễn ra, từ đó đời sống của nông dân không
ngừng được nâng cao. Khi hồ tiêu trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng, vị
trí nông nghiệp được nâng lên, do đó các tiểu quốc đã quan tâm hơn đến những
công việc liên quan đến thuỷ lợi phục vụ nhu cầu trồng trọt. Đặc biệt là trong
lĩnh vực giao thông, các tiểu quốc đã chú trọng đến việc làm đường, để thuận
tiện việc vận chuyển nông phẩm. Như vậy cùng với sự du nhập Islam giáo một cách
rộng rãi các thương nhân đã trao đổi buôn bán, làm giàu trên nguồn hương liệu
và ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Inđônêxia, từ nền kinh tế sản xuất nông
nghiệp lạc hậu, về cơ bản trở thành một nền kinh tế thương mại phát triển khắp
cả nước.
Về
chính trị, Islam giáo du nhập vào, Nhà nước-quốc gia Islam giáo ra đời, đứng
đầu vừa là vua, vừa là giáo chủ, có quyền lực rất lớn, là người điều hành lãnh
đạo đất nước, tôn giáo. Để cai quản đất nước, nhà vua chia quốc gia thành
nhiều đơn vị hành chính do các viên chức dưới quyền cai quản.
Trong quan hệ đối
ngoại, các quốc gia Islam giáo chú trọng việc mở rộng quan hệ giao hảo, buôn
bán với các nước trên thế giới, ngoài những nước là bạn hàng quen thuộc như Thổ
Nhĩ Kì, ấn Độ, các nước Tây á, các quốc gia Islam giáo còn mở rộng quan hệ với
các nước Châu Âu như: Hà Lan, Anh, Pháp, v.v… Trong bức thư gửi Nữ hoàng
Êlidabet nước Anh của Sultan Alandin, Quốc vương Ache đã viết: “Tôi coi người
Anh là bạn và đối xử tốt với họ… trong việc buôn bán mọi người Anh đều được
phép không phải e dè gì… Những người Anh muốn có sự bảo trợ ở đất nước tôi, tôi
sẽ chấp nhận những gì họ muốn”(4). Đây là một
trong những bằng chứng thể hiện mối liên hệ khăng khít trong quan hệ bang giao
của hai quốc gia. Khi các quốc gia Islam giáo đã đủ mạnh, việc mở rộng lãnh
thổ, xâm chiếm thị trường được họ quan tâm. Cuộc chiến tranh giữa Liên minh
Islam giáo do vương quốc Islam giáo Ache đứng đầu với người Bồ Đào Nha diễn ra
liên tục từ thế kỉ XVI cho đến nửa đầu thế kỉ XVII để tranh giành vùng đất rộng
lớn Malắcca là một ví dụ. Kết quả, Liên minh Islam giáo thất bại. Mãi đến
khoảng giữa thế kỉ XVII liên minh Ache-Hà Lan phối kết hợp mới đuổi được người
Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, sau khi chiếm được Malắcca chính người Hà Lan đã thế
chân ở đó.
Về văn hoá xã hội,
Islam giáo du nhập vào Inđônêxia đem lại cho nhân dân Inđônêxia thời bấy giờ
một cuộc cách mạng về tư tưởng. Họ tin vào Thượng Đế, tượng trưng là Allah, chứ
không phải như trước đây họ tin rằng: “Vạn vật hữu linh”, vô số thần thánh, ma
quỷ đã chi phối cuộc sống sinh hoạt của con người. Chủ nghĩa đa thần nhường chỗ
cho chủ nghĩa độc thần-Thánh Allah tồn tại duy nhất trong tâm thức của mỗi
người dân. Tín đồ Islam giáo tuyệt đối tin tưởng vào Allah - Thượng Đế tối cao,
tụng niệm 5 lần trong ngày,
ăn chay tháng Ramadan, hành hương và bố thí… Tuân theo giáo luật nghiêm ngặt
này, đó là sợi dây liên kết các dân tộc khác nhau vào một cộng đồng chung -
cộng đồng Islam giáo - cộng đồng Inđônêxia. Tuy nhiên, quá trình Islam giáo hoá
Inđônêxia với những nghi thức giản đơn, với tính dễ dung hoà, đặc biệt kết hợp
với những tín ngưỡng bản địa, do đó, Islam giáo ở đây có tính mềm mại, không
khắt khe như Islam giáo ở các quốc gia khác, chế độ đẳng cấp cũng dần dần bị
xoá bỏ, trước Thánh Allah mọi người được xem là bình đẳng, đối với phụ nữ không
bị coi là ô uế, không cần chết theo chồng theo lễ Sulti như trước đây.
Những thương nhân - nhà truyền đạo có vai trò đem Islam giáo đến
khắp quần đảo rộng lớn, góp phần quan trọng làm cho các dân tộc khác nhau ở
quần đảo tiếp xúc, giao lưu, hiểu biết về nhau nhiều hơn. Sự phát triển của Islam
giáo làm cho quá trình di cư diễn ra dễ dàng hơn, mạnh hơn trong vùng quần đảo,
ngôn ngữ Mã Lai cùng với Islam giáo lan toả, trở thành tiếng nói phổ biến cho
hầu hết các dân tộc Inđônêxia.
Tóm lại,
Islam giáo đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hoá Inđônêxia. Nó đã chi phối trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của người dân,
đóng vai trò là sợi dây tín ngưỡng đoàn kết cư dân Inđônêxia vào một cộng đồng
thống nhất.
Song
song với những tác động có tính tích cực, quá trình Islam giáo du nhập vào
Inđônêxia cũng để lại những hậu quả, hạn chế nhất định. Islam giáo tràn vào
quần đảo Inđônêxia dẫn đến các cuộc tranh chấp, xung đột lẫn nhau để xây dựng
căn cứ, một số quý tộc tự lập các tiểu vương quốc, làm cho Inđônêxia rơi vào
tình trạng khủng hoảng trầm trọng và phân liệt thành hàng loạt nước nhỏ. Mặc dù
sau khi du nhập vào Inđônêxia Islam giáo đã được “mềm hoá”, nhưng giáo luật và
một số quy định khắc nghiệt của nó ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống tâm lí của
người dân. Chính điều này đã được chính quyền phong kiến ở Inđônêxia lợi dụng,
sử dụng như một công cụ để cai trị, bắt buộc người dân - tín đồ phải trung
thành với giai cấp thống trị, với nền quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền,
chấp nhận chế độ chiếm hữu tư nhân, cam chịu sự bóc lột dã man về kinh tế, áp
bức hà khắc về chính trị. Trong giáo lí của Islam giáo nêu cao thuyết tiền định
để giáo dục người dân tin vào sứ mệnh, để mong điều hoà giai cấp, thủ tiêu tinh
thần đấu tranh của quần chúng, chính điều này đã làm cho người dân cam chịu, an
phận thủ thường trong một trật tự xã hội mà không dám đấu tranh.
Hiện nay, Islam
giáo không được xem là quốc giáo, nhưng vị trí, vai trò của nó trong đời sống
xã hội Inđônêxia không hề bị giảm đi mà ngược lại, ngày càng được nâng cao. Đặc
biệt trong lĩnh vực giáo dục, Inđonêxia là nước đứng đầu về xuất bản các tài
liệu về Islam giáo, nhất là tài liệu
giáo dục dành cho trẻ em. ở Inđônêxia tín đồ Islam giáo sau khi tốt
nghiệp đại học đa số được nắm giữ các chức vụ trọng yếu của đất nước như làm việc
trong các bộ nội vụ, tư pháp, ngoại giao, tài chính… Các học giả Islam giáo
Inđônêxia tham gia tích cực vào cải cách giáo dục Islam giáo và hài lòng nhận
thấy vị trí của người Islam giáo trong nền kinh tế Inđônêxia ở khu vực kinh tế
truyền thống cũng như khu vực kinh tế hiện đại ngày càng cao
Ở Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét